- - Ryokan, thiền sư và thi sĩ Nhật Bản - Tiểu Luận
- - Nguồn gốc Thiền Nhật Bản
- - Ryokan- Nguồn gốc và gia đình
- - Học đạo - Nối dòng Thiền tông
- - Trở về quê hương - Đại Ngu
- - Cuôc đời hành khất
- - Những lá thư gởi bạn
- - Những giai thoại về Ryokan
- - Những giây phút cuối đời - Sương đọng lá sen
- - Tư Tưởng của THIỀN SƯ RYÕKAN
Những giây phút cuối đời
Chọn đời sống không nhà, lang thang đói khổ, khi về già Ryõkan đau ốm kinh niên nhất là về mùa đông, thiền sư bị những cơn sốt rét và đau lưng hành hạï, về mùa hè nôn mửa, tiêu chảy và bịnh vàng da, tuy có một số bạn là bác sĩ luôn luôn trữ sẵn thuốc cũng không giúp được bao nhiêu cho đời sống cơ hàn trên núi Kugami của thiền sư.
Run run èo uột như vầy
Bao năm đã đủ đến ngày biến tan
Tuy thế thiền sư vẫn khiêm nhường không nhận môn sinh. Năm 1815 khi Ryõkan đã thật sự không tự lo được, một chú tiểu Thần Đạo đến thăm Ryõkan và van xin để được ở lại giúp đỡ. Chú tiểu tên Henchõ (1801-1876) mang nước nhặt củi và giữ gìn am những khi Ryõkan vắng mặt. Đến năm 1826, vì quá suy nhược thiền sư phải bỏ núi và sống dưới sự chăm sóc của thương gia Kimura Motouemon (1778-1848). Henchõ đến trụ ngôi đền Thần Đạo làng Zizõdo và vẫn thường xuyên đến chăm sóc cho thiền sư. Sau này Henchõ (1801-1876), sinh quán làng Shimazaki, trở thành thiền sư trụ trì đền Zizõdõ.
Ryõkan ở căn nhà nhỏ riêng biệt trên đất của tòa nhà gia đình Kimura làng Shimazaki cách núi Kugami bẩy dặm. Mặc dầu gia đình Kimura nhiệt tình lo cho thiền sư nhưng dường như Ryõkan không vui phải sống xa nơi tĩnh lặng, luôn luôn cảm thấy cô đơn trống vắng nhớ rừng thông mùa thu mưa, ngọn núi tuyết mùa đông, chim hót hoa nở mùa xuân, âm thanh suối nước mùa hè .
Chim kia mong mỏi từng ngày
Nhớ về tổ cũ rừng dầy núi cao..
Cả một cuộc đời thăng trầm chống chọi với bao nghiệt ngã của một kiếp người, thiền sư đã xả bỏ tất cả theo con đường đạo mong cầu giải thoát sinh tử. Hiểu đạo buông bỏ thế gian tầm thường sống giản dị tự tại với tâm Bồ Tát. Thế mà đến phút cuối thiền sư cho là tất cả thơ chỉ là ngọn gió thoáng qua
Nếu mà có ai hỏi
Tâm sư nghĩ những gì
Mây trời bay, gió thoảng
Hãy thưa chẳng nghĩ chi
Đời người như hạt sương ngàn
Chợt khô chợt thoáng vô thường trước sau .
SƯƠNG ĐỌNG LÁ SEN
Tin theo Phật pháp là tin có Nhân Quả. Vào cuối thu 1827 Ryõkan gặp Teishin (1798-1872). Teishin trẻ đẹp là con của một hiệp sĩ đạo đến từ Nagaoka sống trong một lâu đài ở phía tây nam cách Shimazaki mười lăm cây số. Teishin là vợ một bác sĩ nhưng góa chồng sau năm năm chung sống. Cạo đầu xuất gia vào chùa Phật giáo gần Nagaoka, Teishin cũng làm thơ nên khi nghe tiếng Thiền sư, Teishin quyết định tìm đến Shimazaki diện kiến Ryõkan.
Teishin viết:
“ Lần đầu tiên tôi được diện kiến Ryõkan:`
Ôi tràn đầy niềm vui
Phải chăng đây là mộng
Xin đừng đánh thức tôi
Hãy để yên giấc mộng
Trong nỗi vui tuyệt vời
Ryõkan đáp:
Chập chờn trong cõi mộng
Ước ao là giấc mộng
Cứ bồng bềnh cùng mộng
Triền miên trong vô tận
Nhân quả này là một mối quan hệ
khiến cuối cuộc đời Ryõkan trở nên trong sáng nhẹ nhàng hơn. Thiền sư chấp nhận
Teishin làm môn sinh. Những bài thơ đối
đáp giữa Ryõkan và Teshin khiến người đời sau cho là đã có tình yêu nảy nở. Có
hay không qua những dòng thơ đối đáp ta sẽ thấy ý thơ bàng bạc hướng về đạo
pháp và vì thế sau khi Ryõkan tịch
Teishin góp nhặt tất cả thơ đối đáp của cả hai và đặt tên cho quyển thơ là “ Những hạt Sương đọng lá sen”.
Vì những bài thơ đó trong sạch và nhẹ nhàng như những hạt sương đọng trên lá sen, lá sen không bao giờ thấm ướt đỡ lấy hạt sương trong veo nhẹ tênh long lanh nắng sớm hay óng ánh như những hạt ngọc thiên nhiên ban đêm. Mối tình của cả hai ví như thế đó vì chỉ là một gặp gỡõ của hai tâm hồn cùng đi tìm siêu thoát, họ thấy suốt được nỗi niềm của nhau. Ta không rõ Teishin muốn nói ra đây ai là hạt sương và ai là lá sen?. Đồng chí hướng, họ nâng đỡ cho nhau, tâm tư bù đắp cho nhau như hai người bạn đạo hiểu thấu đáo lẽ vô thường đang đến với họ. Một đêm cùng ngắm trăng và đàm đạo về mọi đề tài nghiêm túc như đạo giáo, thơ và luân lý.
Ryõkan viết:
Lạnh, ôi lạnh quá
Đêm đã khuya rồi
Trông kìa, trông kìa
Trăng cao trên trời
Teshin
“Tuy vậy tôi vẫn còn muốn nói chuyện thêm với Ryõkan”
Những năm thật dài
Năm dài vô tận
Mặt đối mặt đây
Không bao giờ hỏi
Trăng,
Khi nào ta chia tay
Ryõkan đáp
Nếu tim ta vẫn trinh nguyên
Như giây nho quấn quanh thân cội tùng
Hãy cạnh nhau đến tận cùng
Teshin
“Đến khi tôi phải chia tay”
Giờ xin tạm biệt ân sưLối mòn lần bước vuợt qua cỏ dầy
Cầu xin tái kiến ngày mai
Ryõkan đáp
Ta mong hội ngộ , ta mong
Nếu người chảng ngại thật lòng gặp ta
Am nghèo, sương ướt lối qua
Teshin
« Ít lâu sau đó tôi nhận được lá thư của Ryõkan »
Người đã quên ta chăng
Hay lạc lối loanh quanh
Ta chờ, ta chờ mãi
Trong hão huyền, não tâm
Teshin
« Tôi trả lời »
Vô căn cứ lời đồn
Tâm
ái ngại lo buồn
Phải đành tự giam mình
Đỉnh non mây mỏng trôi
Trăng núi chiếu ngời ngời
Sáng trải khắp mọi nơi
Ryõkan viết
Ánh trăng trong sáng làm sao
Chiếu ra tận khắp địa cầu dù xa
Nhật Bản chiếu đến Trung Hoa
Ánh trăng mà hai thầy trò đối đáp đây là pháp Phật, là ánh sáng pháp Phật rõ ràng không có gì có thể trải sáng khắp địa cầu từ Nhật Bản đến Trung hoa bằng Giáo lý thần diệu của Đức Phật.
Ryõkan dạy Teshin làm thơ
thể Tanka
(thể thơ Nhật có 31 chữ thứ tự 5-7-5-7-7 ) và Teshin rất giỏi về thể thơ này.
Teshin cũng nhận những lời giáo huấn của Ryõkan như sau
“Sai hay đúng, tối hay sáng, trở thành rõ ràng khi làn mây mỏng trên đỉnh núi tan đi. Đó chính là luật muôn đời. Người có đồng ý không”?
Teshin
“Đầu xuân tôi gửi Ryõkan lá thư”
Ráng chiều vừa tắt đêm đen
chỉ có ánh trăng
đến bình minh
Ôi sao tĩnh lặng ánh trăng,
Chiếu vào sai đúng rực vàng khắp nơi
Ryõkan đáp
Biết gì so sánh cho bằng
Lá thư người gửi đầu xuân vừa rồi
Vàng ròng ngọc quí sáng ngời
Lu mờ trước lá thư người gửi ta
Đừng quên lời nguyện với nhau
Phật đường đã hứa đời sau cùng về.
Teshin
Thề rằng tôi chẳng quên lời
Phật đường đã hứa cho đời về sau
Trước khi giã từ am của Ryõkan Teshin viết
Tạ từ, tôn kính Ân Sư
Dám mong bảo trọng xin chờ lần sau.
Giữa hân hoan tiếng chim cu
Ryõkan
Đám mây trôi nổi quanh đây
Đợi người ta đợi đâu đây bây giờ
Khi mà khắp núi non mờ
Vang vang tiếng hót chim cu ngọt ngào
Teshin
« Khi tôi quay lại thăm Ryõkan lần nữa »
Lần này lại trở về đây
Rộn ràng tái ngộ cùng Thầy viếng thăm
Tìm theo lối hẹp loanh quanh
Cỏ hè đã phủ dầy xanh lối vào
Ryõkan
Trì tâm đợi nụ triều nhân
Nở hoa, người vượt cỏ sương rậm dầy
Bây giờ người đã đến đây
Teshin
“Một ngày hè, Tôi đến thăm Ryõkan nhưng ngài đi vắng. Mùi hương sen ngọt ngào tràn ngập am trống trải”.
Chẳng có gì chỉ có sen
Mùi hương lan tỏa khắp am thiền
Hỡi ơi trân quí vô biên!
Ryõkan
Ta chẳng có chi để tặng người
Nhưng hương sen ngọt nở rạng ngời
Thay ta nghênh tiếp đón mời
Teshin
“Có lần tôi thưa cùng Ryõkan”
“Sắc diện của người xám và cả chiếc áo của người cũng đen, vậy từ đây tôi xin gọi người là con quạ”
Ryõkan nói “Hay quá ! đúng như thế đó”
Ngày mai ta sẽ bay đi
Nay ta là quạ bây giờ bay đâu
Hành trình sẽ định chốn nào
Teshin
Quạ thường từ núi về làng
Hãy mang quạ nhỏ theo cùng chuyến bay
Quạ nhỏ cánh yếu đuối thay
Sẻ xin cố gắng cùng thầy bay theo
Ryõkan đáp
Chẳng màng chắp cánh cùng bay
Dẫu ai to nhỏ rỉ tai nhiều lời
Kia là “Đôi lứa đấy thôi”
Nếu mà phải thế thế rồi thì sao
Teshin
Con diều là vẫn con diều
Én kia là én, quạ kêu quạ mà
Con cò vẫn là con cò
Như vậy đó tất cả như thị, tâm chân chính thì dẫu thị phi lời ra lời vào cũng không thay đổi được tình thầy trò của Ryokan và Teshin, bài thơ đem con diều , con én và con cò ra so sánh rằng én là én cò là cò và diều là diều, không ai gọi én là cò và gọ cò là diều…. Ryõkan đưa ra những câu thơ khôi hài và Teshin đối đáp với tâm chân thành
Có lần trời đã tối, Ryõkan phải ra về và hứa trở lại sáng mai
Bây giờ ta sẽ phải đi
Bình an giấc ngủ, quay về sớm mai
Ryokan hay rong ruổi lang thang,Teshin viết :
Làm thơ hay đánh trái cầu
Đường làng rong ruổi cũng đều là vui
Hãy xin thoải mái người ơi
Ryõkan đáp
Làm thơ hay đánh trái cầu
Đường làng rong ruổi cũng đều là vui
Khó sao chọn một mà thôi
Teshin
« Đến cuối tháng Chạp, tôi nghe tin Ryõkan đau nặng, liền vội vàng đến thăm Người ».
Ryõkan mừng rỡ
Bao giờ ? bao giờ ?
Thiết tha đợi chờ
Nay người đã đến
Còn gì mà mơ
Teshin
« Và từ khi đó tôi luôn luôn ở cạnh giường săn sóc Ryõkan ngày đêm. Ryõkan càng ngày càng yếu dần »
Ryõkan
Không phải ngừng ăn
Nhưng rồi thời gian
Không ăn được nữa
Khi giã từ trần
Teshin
Ôi thật đau đớn thay!
Đời sống đà đến hẹn
Sao có thể chia tay
Vượt qua sống và chết
Ryõkan
Điều bao ngày vẫn thường hằng đợi mong
Chẳng cần chi, ta sẵn sàng
Rồi ra cũng đến sau cùng
Teshin
Dẫu biết Phật dạy rằng
Muốn về chốn vĩnh hằng
Vượt khỏi nơi sinh tử
Nhưng sao vẫn khó kham
Nỗi sầu biệt đôi đường
Ryõkan
Kìa là trước mắt sau lưng
Lá rơi từng lá chẳng dừng lá rơi
Teishin
thường xuyên ở cạnh tận tình chăm sóc suốt bốn năm cuối đời khi sức khỏe của thiền sư tiếp tục suy giảm. Teishin tha thiết thọ
nhận giáo pháp Phật và cả thi ca. Do sự lãnh hội này mà tập thơ “Những Hạt
Sương Đọng Lá Sen”ra đời. Sau này Teishin là người cho in ấn tất cả thơ và
tiểu sử của thiền sư mà một số do Henchõ gìn giữ. Về sau Teishin chết năm 74
tuổi cũng vào đúng tuổi Ryõkan đã tịch.
Mùa đông 1830 Ryõkan bị tiêu chảy không ngừng thêm nữa không ăn uống gì cả và khốn khổ vì chứng mất ngủ kinh niên. Theo lời kể lại của Henchõ và Teishin, những giây phút còn lại thiền sư hôn mê, nhưng khi tỉnh dậy vô cùng tỉnh táo và vẫn đọc thơ cho hai người viết đến phút cuối cùng. Gần chiều ngày 6 năm 1831, thiền sư ngồi tư thế thiền định và chết như một người ngủ.
Ai xin thơ tạ từ
Người vĩnh biệt ra đi
Xin thay tôi mà bảo
Niệm Phật A Di Đà
Mỗi đoạn đường của suốt cuộc đời Thiền sư Ryõkan không có tình tiết gì là không kỳ diệu siêu nhiên, ngay cả khi thiền sư đã nằm yên trong hòm. Câu chuyện kể vài ngày sau khi tịch, thể xác thiền sư đã được đặt vào hòm. Teshin vô cùng tiếc thương, van xin nài nỉ được nhìn mặt thiền sư lần cuối, mọi người không cầm lòng được nên chiều theo ý Teshin. Khi mở nắp quan tài thân xác thiền sư vẫn tuyệt đối ngay thẳng trong dáng vẻ trang nghiêm.
Trước khi tịch Thiền sư để lại hai bài thơ như sau
Di tích sẽ là chi
Sắc hoa xuân, tiếng họa mi mùa hè
Lá phong vàng đỏ
vẫn về vào thu
Hiển nhiên Ryõkan đã hy sinh tất cả để đi tìm ý nghĩa và chân lý của hạnh phúc vĩnh hằng. Cả suốt cuộc đời Thiền sư có tu tập hay không, hay là thiền sư đã tự giác chính hạnh phúc vĩnh hằng ngay từ khi buông bỏ phú quí vinh hoa và tham ái mà cạo đầu và khoác áo tăng học đạo.
Thiền sư đã chứng ngộ sâu xa nhất mà không biết mình đã ngộ.