- - Ryokan, thiền sư và thi sĩ Nhật Bản - Tiểu Luận
- - Nguồn gốc Thiền Nhật Bản
- - Ryokan- Nguồn gốc và gia đình
- - Học đạo - Nối dòng Thiền tông
- - Trở về quê hương - Đại Ngu
- - Cuôc đời hành khất
- - Những lá thư gởi bạn
- - Những giai thoại về Ryokan
- - Những giây phút cuối đời - Sương đọng lá sen
- - Tư Tưởng của THIỀN SƯ RYÕKAN
Ryõkan - Học đạo
Năm 1777, chán nản không muốn nối tiếp chức vụ cha giao phó và cũng thất vọng vì người thầy học kính mến dọn đi xa, nên mười bẩy tuổi Ryõkan bỏ nhà quy vào chùa Kõshõji làng Amaze có pháp danh là Ryõkan ( Ryõ có nghĩa là đạo đức và Kan có nghĩa là nhân hậu).
Sau bốn năm tu tập, có một nhà sư nổi tiếng
tên Kokusen đến chùa giảng pháp. Tainin Kokusen là Đại Đức trụ trì chùa Entsũ
làng Tamashima thành phố Bitchũ (nay có tên là Okayama), Kokusen có giáng cách
khiêm cung, chân thiện nhưng rất nghiêm khắc và thực tiễn. Chủ trương tu luyện
công phu ngay trong đời sống bình thường đầy bon chen vất vả. Kokusen đã gây
cho Ryõkan một cảm kích sâu xa trên con
đường tầm đạo.
Ryõkan quyết định xin bái Kokusen làm thầy và theo về tu viện Entsũ khi mới có hai mươi tuổi.
Thở vào ra đếm một hai ba
Bẩy tám chín đếm qua đến mười
Bắt đầu đếm lại một thôi
Phật tại tâm ta
Đừng tầm đâu xa
Con đường vô định,
Hướng Nam bến bờ
Mũi thuyền chỉ Bắc
Bao giờ đến nơi
Thiền sư Tainin Kokusen (1723-1791)
Kokusen thụ pháp của thiền sư Manzan và là người thừa kế thành công truyền thừa hệ Sõto ( 1352-1428). Sư phụ của ngài là Sư Nhất Hưu, Sư Shojo(1642-1721) và Sư Bạch Ẩn. Truyền thuyết kể rằng khi Ryõkan hỏi Kokusen về truyền thừa thiền tông, Kokusen trả lời
“Trước hết sắp thứ tự một hàng những viên gạch xong đổ đất lên trên “
Cứ như thế
đó truyền thống đã đặt nền tảng sẵn cho người Nhật.
Thật ra thì giữa thiền sư
Kokusen và cá tính của Ryõkan khi tu tập không mấy ai biết rõ.
Những khóa thiền tại tu viện Entsũ-ji thường có đến hơn bốn mươi thiền sinh. Tu sĩ thiền chịu cơ cực tu tập hơn mười năm trong kỷ luật khắc khe. Cùng thời gian tu và học giáo lý, vẫn tiếp tục học thể thơ Nhật (waka), thơ Hán, thi ca, họa và bút pháp. Môn nào Ryõkan cũng đã tỏ ra rất tài năng. Ryõkan thường theo thầy Kokusen trong những cuộc hành hương và hoằng hóa liên tục nhiều lần về miền Tây. Dựa theo những bài thơ viết trong cuộc đời tu sĩ ta có thể đoán đời sống hằng ngày kể cả thời gian ngồi thiền, tụng niệm và những công việc trong tu viện thì Ryõkan có chín mươi ngày nhập thất rất nghiêm mật vào hai mùa hạ và mùa đông, thiền sinh chỉ được tiếp súc với sư trưởng Kokusen và nghe giảng pháp của Dõgen.
Năm 1790 Ryõkan được ấn chứng về sự nhận biết chân chính giáo lý thiền. Kokusen đã phê chuẩn qua một bài thơ Trung Hoa với một cành tử đàng hoa tượng trưng người đã ban cho Ryõkan chức giáo trưởng. Câu đầu của bài thơ như sau :
“Ryõkan ! ôi sao thật tuyệt ! như một kẻ ngu ngơ”
Sau đó Tainin Kokusen chỉ định
Ryõkan là truyền thừa và sư trưởng thiền
tu viện Entsũ-ji.
Ryõkan và một ni sư tên Gitei (1761-1837) là hai người cuối cùng trong ba mươi đệ tử nhận ấn chứng của Kokusen. Một năm sau Tainin Kokusen tịch thọ sáu mươi tuổi.
Nối dòng Thiền tông
Nhật Bản dưới thời đại Tokugawa các thiền sư tìm tòi tu học theo cả hai đường lối nơi chùa chiền và tu viện, một số khác hoàn toàn chối bỏ liên hệ với thiền viện và tự tạo đời sống biệt lập. Đôi khi họ lang thang khắp nơi chọn sống đời bần cùng với phong cách lập dị.
Như thiền sư Unkei Tõsui (1683) bỏ địa vị trụ
trì chùa Sõto ở Echigo hành nghề khiêng kiệu, quét đường, đóng móng ngựa, người
ta gọi Tõsui là “ gả ăn mày Tõsui”.
Dân gian truyền lại là ông chỉ mặc áo giấy và thắt lưng bằng giây thừng. Cuối
ngày bất cứ những gì ông xin được đem vo chung lại với nhau từng viên tròn như
những quả mận phân phát cho trẻ nhỏ con nhà nghèo và ăn mày. Ông từ chối không
nghỉ ngơi tại bất cứ chùa nào, cuối cùng người ta thấy ông sống trong ``một cái
chòi ở Kyoto và bán dấm bên vệ đường.
Một giáo trưởng Sõto độc lập khác vào cuối thế kỷ mười bẩy đến thế kỷ mười tám tên Fũgai Ekun (1568-1654) sống ẩn dật trong hang đá trên núi cao đã để lại bút tích là những bức họa Đạt Lai Lạt Ma treo ngoài cửa hang, khi cần gạo Fũgai mang tranh ra đổi gạo. Và thiền sư tên Maisão (1765) có biệt danh là “ Lão bán trà xanh” vì thiền sư vừa làm thơ vừa có một quán bán trà .
Không rõ Ryõkan có biết chi
tiết về sự nghiệp của Tõsui chăng, tuy cả hai đời sống cách nhau gần một thế
kỷ, nhưng cuộc đời của cả hai đều đáng
được chú ý.
Bài thơ ba dòng sau đây “ Buông bỏ thân và Tâm”là kinh nghiệm giác ngộ của Dõgen Kigen.
Chỉ là những thứ bồng bềnh
Hình hài, mầu sắc, tuổi tên tạm thời
Phải mau buông bỏ đi thôi
Bài thơ là câu chuyện về thiền sư Dõgen khi thực hành thiền ở Trung Hoa, một thiền sinh ngồi cạnh ngài ngủ gục. Thầy của Dõgen là Thiền sư Như Tịnh (1163- 1228) nói lớn lên rằng:
”Thiền là buông bỏ thân và tâm! sao ngươi lại ngủ gục?”
Nghe
được câu đó Ngài Dõgen chợt ngộ.
Buông bỏ “ thân và tâm “ được nhắc nhở thường
xuyên trong văn chương thiền tông Tào Động”
Vài thế kỷ sau đó Ryõkan viết:
Ryõkan như ngu như đần !
Hãy buông bỏ thân và tâm
Nghĩ mình may mắn được bái thiền sư Kokusen làm thầy. Ryõkan đãõ rời bỏ gia đình chức vị, đời sống sung túc, hy sinh tuổi trẻ, trải qua bao gian khổ để học đạo, chí tâm tu tập trong thiền viện Entsũ, tuân theo những giáo điều nghiêm khắc, không giao tiếp với thế giới bên ngoài .
Từ ngày đến Entsũ
Đông xuân mấy mùa qua
Ngoài viện nhà vạn nóc
Chẳng một ai nhận ra
Áo dơ ta phơi giặt
Đói xin kẻ lại qua
Thiền sinh đời đơn giản
Tâm định chẳng khi ngơ
Entsũ đăng đẳng ngày hè
Thắm tươi cây cỏ bốn bề bình yên
Đâu màng thế giới não phiền
Ngồi trong góc vắng êm đềm làm thơ
Oi nồng kham chịu quanh ta
Vẳng nghe kéo nước tự xa vọng về
Vào đúng thời gian Ryõkan nhận lãnh trách nhiệm truyền thừa tông phái thì hai chi phái của dòng Tào Động Eiheiji (Vĩnh Bình) và Sõjiji (Tổng Trì) đang tranh dành ảnh hưởng gay gắt. Sau thời gian học hỏi thâm sâu kinh sách có lẽ Ryõkan cảm thấy cuộc đời trong tu viện quá nhàn nhã tầm thường, sống với thói quen hằng ngày loanh quanh trong bốn vách thiền viện đều đặn với những quy luật bó buộc trong tăng đoàn chưa thật sự thực hành ráo riết tu tập. Lại nữa sự tranh chấp giữa hai chi phái càng khiến Ryõkan chán nản chối bỏ quy luật tu hành cách biệt nhân thế bằng cánh cổng thiền viện.
Đời này thật may
Thấm nhuận lời thầy
Cơm đà đã đủ
Tường trình ngày ngày
Giã từ thiền viện
Giờ hạnh phúc thay
Trung Hoa sáu Tổ
Bên cạnh gậy này
Hai tám Bồ Tát
Gốc Ấn Độ đây
Thiền sư chọn cuộc đời khất sĩ xin ăn từng bữa, phải chăng đó là một hành động tự thử thách cho chính tâm cầu đạo giải thoát sinh tử của mình .
Khi còn trẻ lang thang
Khắp nẻo đường gian nan
Mải loay hoay cơm áo
Bần hàn, đạo vẫn tìm
Một người ta đã gặp
Một người dậy chánh tâm
Điều cao siêu học hỏi
Ngọc quí mang theo mình
Niềm tin trong chéo áo
Thong dong khắp mọi miền
Một người đây cũng có thể hiểu là Thầy của mình mà cũng có thể hiểu là đã gặp được đạo Phật cao siêu. Lang thang rách rưới ăn mày khắp mọi nơi nhưng rất thong dong tự tại với niềm tin chéo áo của mình luôn luôn có viên ngọc quí. Phải chăng đó là giác ngộ ?.
Dẫu cho tỉnh hay mê
Hằng mong ước, ngại gì
Con đường tâm chân chính
Tìm vạn lần vẫn đi
Khi trẻ với cả một sức sống của tuổi thiếu niên Ryõkan đã chứng kiến sự thất bại của người cha tài ba, người mẹ thương yêu chết sau đó ít lâu, cha bỏ nhà đi mất biệt sau một thời gian dài và trầm mình vì thất chí.
Đời người như đám rong rêu
trôi trong dòng nước, ngọn triều trăng soi.
Thân ta rồi hoại rồi tan
Pháp Phật mãi mãi vô vàn sáng soi
Ryõkan bỏ thiền viện sống lênh đênh cơ khổ khắp nơi, cuối cùng quay về nơi chôn nhau cắt rốn, khi ấy gia đình danh vọng giầu sang do người cha gây dựng với bao công khó gần hết cuộc đời đã hoàn toàn tan rã. Thiền sư chọn cuộc đời khất sĩ xin ăn từng bữa, phải chăng đó là một hành động tự thử thách cho chính tâm cầu đạo giải thoát khổ đau sinh tử của mình .
Khi còn trẻ lang thang
Khắp nẻo đường gian nan
Mải loay hoay cơm áo
Tầm đạo trong bần hàn
Một người ta đã gặp
Một người dậy chánh tâm
Điều cao siêu học hỏi
Ngọc quí mang theo mình
Niềm tin trong chéo áo
Thong dong khắp mọi miền
Một người đây cũng có thể hiểu là Thầy của mình mà cũng có thể hiểu là đã gặp được đạo Phật cao siêu. Lang thang rách rưới ăn mày khắp mọi nơi nhưng rất thong dong tự tại với niềm tin chéo áo của mình luôn luôn có viên ngọc quí. Phải chăng đó là giác ngộ ?.
Dẫu cho tỉnh hay mê
Hằng mong ước, ngại gì
Con đường tâm chân chính
Tìm vạn lần vẫn đi
Tiền hai mặt vọng chân
Như vũ trụ thế nhân
Đọc mớ kinh vô dụng
Thiền chẳng thiền đêm đêm
Liễu bên sông, quyên hót
Không còn ngại vướng tâm
Đồng hành đâu vắng bóng
Đợi nhau đến cửa không