Con người khi sinh ra ai cũng có một đời sống thênh thang trải dài trước mắt, và có quyền tự do chọn lựa một cuộc sống thích hợp cho mình. Nhưng có thật là ai cũng xử dụng được sự tự do ấy không? Đại đa số con người sinh ra với những tương quan ràng buộc, và cách sống dễ nhất là đi theo những nề nếp sẵn có của gia đình và xã hội; nếu đi ra ngoài những khuôn khổ ấy sẽ bị coi như là bất bình thường trước mắt thế nhân. Có những kẻ có đời sống bất bình thường do ngu si, ảo tưởng hay khuyết tật , nhưng cũng có những người sống bất bình thường do sự lựa chọn - nếu chỉ nhìn hiện tượng bên ngoài, họ dường như trông giống nhau, nhưng trên bản chất, sự khác biệt là một trời một vực. Vì lựa chọn một đời sống bất bình thường đòi hỏi một sự dũng cảm, một sự hiểu biết rõ ràng con đường mình đang đi và sẵn sàng chấp nhận nó. Có ý thức tự do lựa chọn con đường đời cho mình, đó là điều căn bản phân biệt giữa người và người.
Lương Khoan Đại Ngu là một hiện tượng trong làng Thiền Nhật Bản. Ông là một người được coi như bất bình thường, nhưng chính sự bất bình thường ấy đã làm cho ông trở thành một huyền thoại bất tử .
Điều gì khiến Lương Khoan đã trở thành nổi tiếng như vậy? Có phải vì ông đã gạt bỏ hết những địa vị cao xa được truyền trao để lựa chọn cuộc sống khất sĩ lang thang bần hàn? Hay vì những lời thơ trong sáng, đượm đầy ý Đạo? Có lẽ vì tất cả những điều đó, nhưng cũng có lẽ điều chính yếu nhất là vì con người của ông, một con người đã biết xử dụng quyền tự do làm chủ đời sống của mình. Phải chăng ông là một “Vô Vị Chân Nhân”, đã đạt đến mức “tuyệt học” của một “nhàn đạo nhân”, vượt ra ngoài những kiềm tỏa của danh vị thế gian?
Có thể có những lời phê bình, cho rằng ông thiếu tinh thần trách nhiệm đối với gia đình cũng như với tông môn. Nhưng nếu ông lựa chọn một đời sống bình thường, đã chắc gì chúng ta có một Lương Khoan Đại Ngu lưu danh hậu thế. Nói cho cùng, đời sống thế gian rồi sẽ qua đi như một giấc mộng, và Lương Khoan là người đã tỉnh mộng để sống với hết tâm ý như một người “dạo chơi trong cõi mộng”.
Nhìn lại năm mươi năm
Người khôn và quỷ dữ
Chẳng là gì, có chăng
Mộng ngay trong giấc mộng
Được thầy ấn chứng, truyền trao cây gậy chánh pháp để nối dõi tông môn, nhưng Lương Khoan đã từ bỏ tất cả và tự phong cho mình danh hiệu “Đại Ngu”, phải chăng Lương Khoan đã tự nhận mình là một kẻ ngu đối với người đời? Thật ra, “Ngu” hay “Trí” có nghĩa gì không, khi người ấy đã buông bỏ được tất cả, từ thân đến tâm, ngay cả đến trí tuệ của mình?
Tổ Đạt Ma đã nói: “Không biết buông bỏ trí tuệ là ngu si”, trong kinh Bát Nhã cũng có câu: “Vô trí, diệc vô đắc”. Như thế, chính cái Ngu của Lương Khoan lại biểu hiện cho cái Trí rỗng rang thông suốt, không còn bị vướng mắc trong những phân biệt của cái “đạt được” và “không đạt được” vậy.
Lương Khoan như ngu như đần!
Hãy mau buông bỏ thân tâm
Tự nhận mình là Ngu, hành động như một kẻ ngu ngơ, lúc nào cũng thích chơi đùa như một đứa trẻ, nhưng dưới cái lớp vỏ ngu đó là sự Vô Tâm của một thiền giả đạt đạo đã thấy tâm và buông được tâm, và trong sự buông bỏ toàn diện đó tỏa ra sự thấy biết mẫn cảm đối với thế giới chung quanh và lòng từ ái đối với những kẻ bất hạnh bần cùng. Những lời thơ để lại cho ta thấy thấp thoáng trong đó hình ảnh một bậc chân tu sống đời thanh tịnh, vui với những điều giản dị trước mắt:
Một mái lều suông
Bốn bề rừng tùng
Bài thơ, kinh kệ
Vách ván trơ không
Nồi cơm mờ bụi
Trơ lạnh bếp than
Ấm trà khô cạn
Những ngày sáng trăng
Phương Tây người khách
Lại đến viếng thăm
Trăng sáng tượng trưng cho tâm giác ngộ viên mãn. Người khách phương Tây ấy, phải chăng chính là A Di Đà, nguồn giác ngộ sáng ngời vẫn tiềm ẩn nơi tự thân của mỗi người chúng ta?
Chấp nhận cuộc sống gian khổ để sống thực với chính mình, lướt qua mọi sự như đám mây, có phải vì đã tìm được cứu cánh và có được sự bình an nơi tâm hồn?
Khắp nẻo đường gian nan
Mải loay hoay cơm áo
Bần hàn, đạo vẫn tìm
Một người ta đã gặp
Một người đầy chánh tâm
Điều cao siêu học hỏi
Ngọc quý mang theo mình
Niềm tin trong chéo áo
Thong dong khắp mọi miền
“Một người đã gặp”, phải chăng chính là cái Tâm Nguyên Thủy, là Bản Lai Diện Mục mà Lương Khoan trực nhận được, để rồi từ đây không còn hoang mang sợ hãi, vững tâm bước đi với “ngọc quý mang theo mình”, với “niềm tin trong chéo áo”?
Con đường tâm chân chính
Tìm vạn lần vẫn đi
Tuy nhiên, có những lúc Lương Khoan cũng thấy cô đơn giữa núi rừng, cảm thấy cần có một tâm hồn tri âm tri kỷ để cùng chia xẻ những nỗi niềm, vì dù thế nào tình cảm cũng là một phần không thể thiếu của con người:
Ta mong có bạn đồng hành
Xẻ chia hiu quạnh giá băng một mình
Người bạn tri âm ấy, mãi đến lúc cuối đời Lương Khoan mới gặp được, đem lại nét trọn vẹn cho cuộc đời của thiền sư. Cuộc chơi dạo trong cõi mộng đã chấm dứt, ông ra đi thanh thản, nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu. Cảnh sắc đời người có khác chi cảnh sắc của thiên nhiên vũ trụ, xuân đến rồi thu đi, hoa nở rồi tàn, lá mọc rồi rụng, để rồi đông qua xuân lại, mọi sự cứ tiếp tục như thế, mãi mãi là như thế. Lẽ sinh tử, luân hồi đã hiểu rõ, đâu còn điều gì cần phải nói? Cho nên bài thơ thị tịch của Thiền sư chỉ vỏn vẹn:
Di tích sẽ là chi
Sắc hoa xuân, tiếng họa mi vào mùa hè
Lá phong vàng đỏ
Vẫn về vào thu
Sự chứng đắc của một hành giả chỉ có người ấy mới biết được. Nhưng như một vì sao, tâm giác ngộ bao giờ cũng tự tỏa sáng, không cần người ấy phải chứng tỏ gì cả. Lương Khoan không bao giờ thuyết pháp, không nói chuyện Đạo, nhưng người ta vẫn tìm đến với ông, phải chăng vì họ đã cảm nhận được cái tâm Bi, Trí, Dũng của một bậc thiền sư đạt đạo, mà không cần qua ngôn ngữ văn tự. Có lẽ, lời giảng pháp hùng hồn nhất chính là cuộc đời mà Lương Khoan đã sống, là những lời thơ thanh cao nhẹ nhàng đầy nét Thiền vị mà ông đã để lại.
Lương Khoan đã nhận cây gậy chánh pháp của thầy truyền trao, và bằng cách riêng của mình, ông đã không phụ lòng tin cậy của thầy.
Ngọc Bảo
(Giới thiệu sách Lương Khoan Đại Ngu, dịch giả Thiên Hương Chu Kim Hải)
Tháng 9, cuối hạ 2009
Gửi ý kiến của bạn