TỈNH THỨC - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn

27 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 54665)




soi_sac_khong-contentTỈNH THỨC

(Bài thơ & Trích đoạn về Đại thừa)


 
Đi trên mặt đất
Với tâm-đang-là
Bỗng nhiên Tịnh độ
Xanh chồi trổ hoa

Một ngày lao tác
Với lời-vô-ngôn
Gặp Phật, Bồ tát
Hoá thân đời thường

Đêm về cô tịch
Đối ẩm cùng trăng
Đượm tình bạn lữ
Khắp cả vĩnh hằng

Cái “tôi” chuyển hoá
Phiền não lụi tàn
Thái dương hiển lộ
Mây đen dần tan.


(ĐVMT)

Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)


---



TRÍCH PHỎNG VẤN NGÀI PA-AUK SAYADAW – MANG Ý ĐẠI THỪA


(Trích trong tác phẩm Biết Và Thấy của Thiền sư Pa-Auk Sayadaw; dịch giả Pháp Thông; NXB Tôn Giáo; 2006. Ngài là một vị thiền sư danh tiếng, theo truyền thống Theravàda - Phật giáo Nam tông. Theo lời giới thiệu thì lời dạy của ngài giống như những gì được mô tả trong Thanh Tịnh Đạo, nhưng nhiều chi tiết hơn; Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) do ngài Buddhaghosa biên soạn, là một giải trình về tam học).



* Hỏi: Đức Phật là một bậc Đại A-la-hán. Thế nào là sự khác nhau giữa Ngài và các vị đệ tử như tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, cũng là các bậc A-la-hán?


Đáp: A-la-hán thánh đạo của đức Phật luôn luôn kết hợp với Toàn giác trí hay Nhất thiết trí, còn A-la-hán thánh đạo của các vị đệ tử bao gồm sự giác ngộ của ba hạng đệ tử (thanh văn).

1- Sự giác ngộ của bậc Thượng thủ Thanh văn.
2- Sự giác ngộ của bậc Đại Thanh văn.
3- Sự giác ngộ của bậc Thanh văn thường.

A-la-hán thánh đạo của các vị đệ tử Thanh văn đôi khi kết hợp với tứ tuệ phân tích; đôi khi kết hợp với sáu thắng trí hay lục thông. Đôi khi kết hợp với tam minh; hoặc có khi chỉ là A-la-hán thánh đạo thuần túy: Câu phần giải thoát hoặc Tuệ giải thoát. Nhưng không bao giờ kết hợp với Toàn giác trí. Như vậy, cho dù là Thượng thủ Thanh văn, A-la-hán thánh đạo của tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng không kết hợp với Toàn giác trí. Ngược lại, A-la-hán thánh đạo của đức Phật không những kết hợp với Toàn giác trí, mà còn với tất cả các trí khác, cũng như các đức đặc biệt của một vị Phật. Một điều khác nữa là, do các ba-la-mật đã thành thục của các ngài, mà chư Phật tự mình đắc Đạo, Quả và Toàn Giác Trí, không cần một vị thầy. Trong khi một vị Thanh văn đệ tử chỉ có thể đắc các Đạo, Quả tuệ do nghe pháp liên hệ đến Tứ Thánh Đế nơi một vị Phật, chứ không thể tự mình thực hành mà không có thầy chỉ dẫn được. Đây là những điểm khác nhau.


* (Trong một câu trả lời khác) Có bốn loại người đạt đến Niết Bàn. Loại thứ nhất là Độc giác Phật, ở đây chúng ta không đề cập đến. Ba loại còn lại là:

1- một vị Bồ tát,
2- một vị Thượng thủ Thanh văn,
3- một vị Đại Thanh văn, và
4- một vị Thanh văn thường.

Đức Bồ tát của chúng ta trong thời kỳ của đức Phật Nhiên Đăng đã đắc tám thiền chứng và năm thần thông hiệp thế (ngũ thông). Trong các kiếp quá khứ, ngài cũng đã hành Chỉ và Quán đến “Hành xả tuệ”. Nếu ngài thực sự muốn đắc Niết bàn, ngài có thể đắc một cách nhanh chóng, do nghe một bài kệ ngắn mà đức Phật Nhiên Đăng thuyết về Tứ Thánh Đế. Nhưng ngài không chỉ mong mỏi Niết Bàn, mà muốn phát nguyện thành Phật trong tương lai, nên sau đó ngài nhận được lời thọ ký xác định của đức Phật Nhiên Đăng. (…).


* (Trong một câu trả lời khác) Sở dĩ có điều này là vì con đường thực hành của Bồ tát và con đường thực hành của vị Thanh văn thường không giống nhau. Quý vị có thể xác chứng điều này trong các bản Kinh Pali – Buddhavamsa (Phật Sử) và Cariyapicaka (Hạnh Tạng). Hai con đường này khác nhau như thế nào? Mặc dù một vị Bồ tát đã được đức Phật thọ ký, vào lúc ấy, các ba-la-mật của họ vẫn chưa thành thục để đạt đến Toàn giác trí. Vị ấy còn phải tu tập các ba-la-mật thêm nữa. (…). Lúc đó, ngài vẫn chưa thể hủy diệt hoàn toàn nghiệp lực bất thiện. Vì vậy, khi các nghiệp bất thiện chín mùi, ngài không thể thoát khỏi quả báo của chúng. Đây là một quy luật tự nhiên. Nhung một vị Thanh văn bậc thường đã đắc Tuệ phân biệt nhân duyên, hoặc Sinh diệt tuệ, hoặc Xả hành tuệ, có các ba-la-mật đủ để đắc đạo - quả tuệ. Vì lý do này, họ đắc đạo - quả, tức là thấy Niết Bàn ngay trong kiếp này hoặc trong kiếp tương lai nào đó của họ. Đây cũng là một quy luật tự nhiên.


* (Nói về cúng dường) Trong Kinh Phân Biệt Cúng Dường mà ở đầu bài giảng này có đề cập đến, đức Phật giải thích mười bốn loại cúng dường theo cá nhân hay đối nhân thí như sau. (…) Do cúng dường với tâm trong sạch đến một phàm nhân giới đức, sự cúng dường ấy có thể được đáp trả lại (phước báo) một trăm nghìn lần. Do cúng dường đến một người ngoài giáo pháp (của Phật) đã ly tham đối với các dục nhờ chứng thiền, sự cúng dường ấy có thể được đáp trả một ngàn vạn lần. Do cúng dường đến một vị đã nhập vào đạo lộ đưa đến sự chứng đắc Nhập lưu thánh quả, kết quả của sự cúng dường ấy không thể tính kể, không thể đo lường được. (…).




* Hỏi: Đức Phật dạy cho các tì khưu “Thần Chú Rắn” (Mantra). Đọc thần chú ấy có giống như Thiền tâm từ không? Có phải niệm chú là một truyền thống của Bà-la-môn du nhập vào đạo Phật không?


Đáp: Thần chú là gì? Thế nào là “Thần Chú Rắn”? Chúng tôi không biết các thần chú có phải được truyền vào từ Ấn Giáo hay không, nhưng trong kinh điển Thượng tọa bộ (Theravàda) có một bài Kinh Bảo Hộ Khanda Paritta. Đức Phật dạy Kinh Bảo Hộ này để các tì khưu đọc tụng hàng ngày. Có một điều luật quy định rằng, nếu một tì khưu hay một tì khưu ni ở rừng nào mà quên đọc Kinh Bảo Hộ này ít nhất mỗi ngày một lần, vị ấy xem như đã phạm một tội. Có một lần, vào thời đức Phật, một vị tỳ khưu nọ đang trú trong rừng thì bị một con rắn độc cắn chết. Do sự kiện này mà đức Phật dạy bài Kinh Khanda Paritta. Mục đích của Kinh Bảo Hộ này cũng giống như Thiền tâm từ vậy. Trong Kinh đưa ra những cách khác nhau để mở rộng lòng từ đến các loại rắn và rồng khác nhau. Ngoài ra cũng có một lời xác nhận về sự thực liên quan đến Tam bảo và những ân đức của Phật cũng như các vị A-la-hán. Chúng tôi sẽ tụng bài Kinh Bảo Hộ này tối hôm nay. Nó rất có oai lực. Quý vị có thể gọi đó là “Thần Chú Rắn” cũng được. Cái tên không quan trọng lắm. Quý vị có thể gọi nó bằng bất cứ tên gì mình thích. Có một số vị sư ở Miến Điện dùng Kinh Bảo Hộ này để tụng cho những người bị rắn độc cắn rất có hiệu quả. Khi họ tụng Kinh Bảo Hộ này nhiều lần và khi nạn nhân uống nước có tụng bài Kinh ấy, nọc độc dần dần tan biến. Thường thường thì họ khỏi, nhưng không phải trường hợp nào cũng được như vậy. Đức Phật dạy Kinh Bảo Hộ này để các vị tỳ khưu ngăn ngừa rắn độc. Nếu các vị tụng Kinh với lòng kính tin và mở rộng lòng từ đến tất cả chúng sinh, kể cả các loài rắn, thì sẽ không gặp hiểm nguy. Nếu các vị còn giữ giới nghiêm túc nữa, thì không có sự tai hại nào có thể xảy đến với mình được.


* (Trong một câu trả lời khác) Tôn giả Tu Bồ Đề lại rất thành thạo trong Thiền tâm từ. Ngài cũng nhập Thiền tâm từ ở mỗi nhà trước khi nhận của cúng dường. Nghĩa là chỉ sau khi xuất khỏi Thiền tâm từ, ngài mới nhận phần cúng dường của thí chủ. Tại sao các ngài làm vậy? Vì muốn cho thí chủ có được lợi ích cao nhất. Các ngài biết rằng, nếu các ngài làm thế thì thiện nghiệp vô lượng và thù thắng sẽ khởi lên trong tiến trình tâm của các vị thí chủ. (…).


* (Trong một câu trả lời khác) Chúng ta biết Niết Bàn là Visankhàra (vô hành), tức là “không có các hành”. Các hành (sankhàra) là danh sắc và các nhân của chúng, còn Niết Bàn thì không có cả hai. Tâm biết Niết Bàn được gọi là tâm không có các hành sinh, visankhàragara citta (vô hành sinh tâm). Nhưng tự thân nó không phải là visankhàra (vô hành); vì hành vi thấy Niết Bàn đòi hỏi phải có sự hình thành của tâm.

---------------

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Thieu_nu_ngam_hoa_sen