GIÁO HUẤN ĐIỂN TỌA - Đạo Nguyên

04 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 25266)


Giáo hun điển tọa


(Tenzo Kyokun)

 

 

(Thiền sư Eihei Dogen (Đạo Nguyên , 1200-1253) là vị tổ sáng lập ra dòng Tào Động ở Nhật Bản. Cha mẹ mất từ khi còn nhỏ, nhận thấy sự vô thường của cuộc đời khiến Đạo Nguyên sớm có chí hướng học đạo, 14 tuổi xuất gia, đầu tiên với tông Thiên Thai, sau này tu học với các thiền sư thuộc phái thiền Lâm Tế là Eihei (Vinh Tây) và Myozen trong 9 năm. Năm 24 tuổi theo thầy là Myozen qua Trung Quốc, học đạo với vị Tổ thứ 13 của dòng Tào Động là Ju Tsin. Ở Trung Quốc bốn năm, giác ngộ viên mãn, trở về Nhật lập chùa Eiheiji ở Echizen (Fukui ngày nay), từ đó tông Tào Động được thiết lập, trở thành một trong những tông phái Thiền lớn mạnh nhất ở Nhật Bản cho tới nay.


 Ngoài tác phẩm chính được lưu truyền rộng rãi là Chánh Pháp Nhãn Tàng (Shobo Genzo), còn một bản văn quan trọng khác ít được biết đến hơn là “Vĩnh Bình Thanh Qui” (Eihei Shingi) mà Đạo Nguyên viết cho đệ tử, trong đó chỉ dẫn cặn kẽ sự tu hành theo đúng chánh pháp. Tenzo Kyokun (Điển tọa giáo huấn) là bài đầu trong tuyển tập này, đã trở thành nổi tiếng có giá trị vượt thời gian và không gian; chân lý đạo pháp hàm chứa trong đó cho tới nay qua bao nhiêu thế kỷ vẫn là điều cho chúng ta học hỏi và áp dụng theo, mặc dù hoàn cảnh sống có khác xưa rất nhiều. 

 Sau đây là bản dịch “Tenzo Kyokun” trích từ “From the Zen kitchen to enlightenment” của Thomas Wright, tham chiếu cùng bản dịch của thiền sư Yasuda Joshu Dainen và Anzan Hoshin):

 

 

 Từ thời xa xưa, trong những tự viện Phật giáo, thường có sáu ban được thiết lập để trông nom những công việc của tự viện. Những vị tăng phụ trách các ban đó đều là đệ tử của Phật và hướng dẫn đại chúng trong những Phật sự. Một trong những ban này là ban điển tọa (tenzo), phụ trách công việc nấu nướng cho tự viện.

 

 Trong “Thiền uyển thanh quy” (do đại sư Changlu Zongze biên soạn vào năm 1102-03) có viết rằng: “Vị điển tọa (trưởng ban trai phạn) có trách nhiệm phục vụ cúng dường những bữa ăn cho chúng tăng trong chùa.”


 Từ ngàn xưa, công việc này thường được đảm nhiệm bởi những vị thầy có Đạo tâm và đã khởi một Bồ Đề tâm rộng lớn. Công việc cần sự tinh tấn nỗ lực thực hành Đạo pháp. Nếu ai đó được giao cho trách vụ này mà không có một Đạo tâm thì chỉ tạo ra và chịu đựng rất nhiều khó nhọc mà không được lợi lạc gì.


 “Thiền uyển thanh quy” cũng nói rằng, “Hãy dùng Đạo tâm của mình trong công việc, cẩn trọng chu đáo làm những bữa ăn thay đổi cho thích hợp với nhu cầu và tình thế, giúp cho mọi người có thể tu tập toàn thân tâm trong sự an lạc, không bị nhiều chướng ngại.”


 Thời xưa, các đại sư, các vị tổ, như là Qui Sơn Linh Hựu và Động Sơn Thủ Sơ, đã từng làm việc phạn đầu. Tuy rằng công việc chỉ là nấu nướng, sửa soạn bữa ăn, nhưng với sự thể nhập tâm Đạo vào đó, vị điển tọa không phải là một người nấu bếp bình thường.


 Khi tôi ở Trung Hoa, những lúc rảnh rỗi tôi thường hay nói chuyện với các vị tăng có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong các ban khác nhau trong chùa. Những gì tôi học hỏi được từ họ chắc hẳn là cốt tủy của những điều đã được truyền trao từ đời này qua đời khác của các vị thầy, Tổ đã giác ngộ từ xưa đến nay.


 Chúng ta phải học tập kỹ càng “Thiền uyển thanh quy” để hiểu những trách nhiệm của một vị điển tọa, hơn nữa phải lắng nghe những lời nói của các vị trưởng lão đã làm việc này.


 Công việc trong một ngày một đêm bắt đầu sau bữa ăn trưa. Lúc đó vị điển tọa phải đi đến ban quản lý chùa để lấy gạo, rau, và những thứ cần thiết cho bữa ăn sáng và ăn trưa ngày mai. Có những thứ ấy trong tay rồi, phải xử dụng chúng cẩn thận như lo cho mí mắt mình vậy. Thiền sư Baoning Renyong đã nói rằng: “Hãy chăm sóc tài sản chung của chùa như chăm sóc mắt mình vậy.” Vị điển tọa phải xử dụng tất cả những thực phẩm có được trong sự trân trọng, như thể là sẽ đem nấu cho vua vậy. Những thực phẩm đã nấu hoặc chưa nấu đều phải được chăm sóc như vậy.


 Sau đó, toàn ban điển tọa sẽ hội nhau trong bếp quyết định sẽ nấu món ăn gì cho ngày hôm sau, ví dụ như, sẽ nấu món cháo nào, loại rau nào, và cho gia vị như thế nào. Trong “Thiền uyển thanh quy” nói rằng: “Khi đã quyết định số lượng thực phẩm và số món ăn cho bữa ăn sáng và trưa mai, vị điển tọa phải đến tham khảo với những vị tăng trong các ban khác ở chùa. (Sáu ban ở chùa là ban tổng quản lý, thư ký, kế toán, hành chánh, trai phạn, và bảo trì). Sau khi chọn món ăn rồi, thực đơn sẽ được yết lên bảng trước phòng của viện trưởng trụ trì, cũng như ở trước sảnh đường tu học.”


 Sau khi làm xong điều ấy rồi, bắt đầu sửa soạn cho bữa ăn sáng ngày mai. Không được để cho người khác làm những việc vo gạo, lặt rau, mà chính mình phải làm việc ấy, phải dùng đến tay, đến mắt, đến tâm thành của mình. Phải tập trung tỉnh giác, thấy rõ mọi sự trong thực tánh Như Như, đừng tán tâm hay quá chú mục chỉ làm một việc mà quên đi những việc khác. Đừng bỏ lỡ một công đức nào, dù chỉ là một giọt trong đại dương công đức, hay dù chỉ một hạt cát nhỏ trên ngọn núi thiện căn.


 Cũng trong “Thiền uyển thanh quy” có nói rằng, “Nếu bữa ăn không có sự hài hòa của sáu gia vị và ba đức tính, thì vị điển tọa đó đã không thực sự phục vụ đại chúng.” (sáu gia vị là đắng, chua, ngọt, mặn, nhạt, và cay. Ba đức tính là khinh an, tịnh khiết, đúng như pháp.)


 Khi đãi gạo, hãy cẩn thận nhặt bỏ những hạt sạn, khi nhặt sạn hãy cẩn thận đừng để mất một hạt gạo nào. Nhìn gạo là cũng thấy sạn; nhìn sạn là cũng thấy gạo. Cứ tiếp tục làm việc chu đáo cẩn thận, ba đức tính sẽ tự nhiên hình thành phối hợp hài hòa với sáu gia vị.


 Tuyết Phong Nghĩa Tồn có lần đã làm điển tọa trong chùa của Động Sơn Lương Giới. Một ngày nọ Tuyết Phong đang vo gạo thì Động Sơn tình cờ đi ngang qua, hỏi rằng, “ Đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát?” Tuyết Sơn trả lời, “Đãi bỏ cả cát lẫn gạo.” Động Sơn hỏi tới, “Thế thì đại chúng lấy gì ăn?” Để đáp lại, Tuyết Phong liền lật úp thau đãi gạo. Động Sơn bảo, “Nhân duyên của ông không thích hợp ở đây, ông nên đi tìm một vị thầy khác.” *


 *( Trong câu chuyện này, gạo và sạn có ý nghĩa tượng trưng cho niệm thiện và niệm ác, hay chân như và vọng tưởng. Sau Tuyết Phong qua học với Đức Sơn mới ngộ đạo. )


 Từ xa xưa tới nay, những bậc thầy giác ngộ đều lấy tâm Đạo của mình ứng hóa vào trong công việc, sao ngày nay những người hậu duệ chúng ta lại không làm được việc ấy? Cổ đức có nói, “Với người điển tọa, tâm đạo được thể hiện qua sự xăn tay áo lên làm việc.”


 Chúng ta hãy cẩn thận xem xét gạo và cát sạn để không làm mất một hột gạo nào. “Thiền uyển thanh quy” có nói: “Khi sửa soạn món ăn, người phạn đầu có trách nhiệm xem xét mọi việc cho được sạch sẽ thanh khiết.”


 Đừng phí phạm đổ đi những hạt gạo khi chắt nước vo gạo ra. Thời xưa người ta thường dùng một cái khăn lọc để chắt nước vo gạo ấy đi. Rửa gạo xong rồi, đổ chúng vào nồi cơm, cẩn thận đừng để cho con chuột nào rơi vào đó, hay cho bất cứ một người nào đi ngang qua bếp được thọc tay vào hay nhòm ngó vào nồi cơm.


 Sau khi đã nấu những món rau cho bữa ăn sáng và trước khi nấu cơm canh cho bữa ăn trưa, hãy đem dọn rửa những nồi niêu, chén bát, kiểm soát mọi sự cho sạch sẽ và ngăn nắp. Những đồ cần để trên cao hãy để lên cao, và những đồ nên để dưới thấp thì cho xuống thấp; như vậy, trên cao hay dưới thấp, tất cả các thứ đều ở trong vị trí thích hợp vững vàng.*


 *(Trong đoạn này, Đạo Nguyên có ý nhắc đến câu chuyện của Quy Sơn và Ngưỡng Sơn. Một hôm hai người đi ra canh tác ruộng lúa. Ngưỡng Sơn nói, “Ở dưới này trông thấp quá, còn chỗ kia lại cao quá nhỉ?” Qui Sơn trả lời,”Mình có thể định lượng mức cao thấp qua mực nước được.” Ngưỡng Sơn đối đáp: “Bạch Thầy, mình không thể tùy thuộc vào mực nước mà đặt tiêu chuẩn được! Chỗ nào cao thì tự nó ở trên cao, còn chỗ nào thấp thì tự nó ở dưới thấp.)


 Đũa dùng để gắp rau, muỗng múc canh, và tất cả những đồ dùng khác đều phải được dùng cẩn thận trong sự vô phân biệt và tỉnh giác, và sau khi dọn rửa sạch sẽ, tất cả đều được cất đi gọn gàng vào chỗ cũ. Hãy chú tâm vào công việc và đừng quăng liệng cẩu thả đồ đạc chung quanh.


 Dọn dẹp xong, bắt đầu sửa soạn cho bữa ăn trưa sắp tới. Trước hết, kiểm soát lại xem có con sâu nào, hay có hạt đậu, hạt sạn nào ở trong gạo, nếu có, hãy cẩn thận nhặt chúng ra.


 Trong khi chọn gạo và rau để nấu, những người trong ban trai phạn phải đọc một bài kinh cầu nguyện vị thần bếp. Rồi bắt đầu sửa soạn nấu những món ăn và canh, rửa sạch tất cả mọi thứ thật kỹ càng để không còn một chút đất dơ hay sâu bọ nào sót lại.


 Khi nhận thực phẩm từ ban quản lý chùa, không bao giờ nên phàn nàn hay thất vọng về số lượng hay phẩm chất của thực phẩm đã lãnh. Ngày cũng như đêm, hãy tu tập để tiếp nhận trong tâm những gì đến và đi , nhập tâm trong công việc, để tâm hòa với cảnh trong đời sống không biên giới trong ngoài.


 Trước nửa đêm hãy bầy biện sẵn các vật liệu để nấu cho sáng hôm sau; sau nửa đêm bắt đầu sửa soạn nấu nướng.


 Sau bữa ăn sáng, rửa những nồi cơm, nồi canh để nấu cho bữa ăn trưa. Vị điển tọa phải luôn luôn có mặt ở nơi vo gạo khi ngâm gạo và đong nước nấu cơm.


 Hãy theo dõi thật kỹ, đừng để một hột gạo nào bị phí phạm. Rửa gạo thật kỹ càng, rồi cho vào nồi nhóm lửa nấu. Cổ đức có nói: “Hãy xem nồi cơm như đầu của mình; xem nước nấu như máu của mình vậy.”


 Bới cơm vào trong thố tre vào mùa hè, thố gỗ vào mùa đông, rồi để lên bàn. Trong khi nấu cơm, cũng nấu các món ăn khác và canh.


 Vị điển tọa phải đích thân trông nom mọi việc. Điều đó phải làm đúng như vậy dù cho chỉ làm việc một mình hay có người phụ tá lo việc bếp lửa. Gần đây, trong các thiền viện đã giao cho người nấu cơm và nấu canh riêng, làm việc dưới quyền vị phạn đầu. Tuy nhiên, vị điển tọa vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong công việc. Thời xưa, vị điển tọa hoàn toàn làm việc một mình, không có ai giúp đỡ.


 Trong khi nấu bếp, đừng bao giờ có những định kiến phàm tình, hay làm việc với những cảm xúc riêng tư. Hãy tâm niệm rằng từ một nơi cỏ dại mà một ngôi chùa nguy nga có thể được dựng lên, từ những hoạt động nhỏ nhặt như hạt bụi mà bánh xe chánh pháp có thể được lưu chuyển. Nếu chỉ có rau cỏ rẻ tiền đạm bạc để nấu canh, cũng đừng có xem khinh. Nếu có những vật liệu đắt giá để nấu một món đầy bổ dưỡng, cũng đừng có coi trọng. Không yêu thích quyến luyến bữa ăn ngon, cũng không ghét bỏ trốn tránh bữa ăn dở. Đừng lơ đễnh và cẩu thả với những thực phẩm có vẻ tầm thường, và cũng đừng tưởng rằng có những vật liệu tốt thì thế nào cũng có đồ ăn ngon. Hãy dùng tâm thành để nấu ăn, giữ thái độ bình đẳng không phân biệt và lệ thuộc vào phẩm chất của thực phẩm. Một người để tâm bị lung lạc với chất lượng của đồ vật, hay thay đổi thái độ, lời nói tùy nơi tướng mạo và địa vị của người đối diện thì không phải là một đạo nhân đích thực.


 Hãy kiên cố phát tâm Bồ Đề để vượt lên trên những vị tổ ngày xưa, và làm hơn cảø những bậc đàn anh đã đi trước. Nếu những bậc thầy trong quá khứ đã nấu được một món cháo bình thường từ những rau cỏ tầm thường, ta phải cố gắng để làm một nồi cháo ngon cũng với những vật liệu ấy. Điều này quả thật rất khó làm. Ngoài những khó khăn khác, còn có sự khác biệt lớn lao giữa các thời đại ngày xưa và ngày nay, vì vậy ước nguyện muốn được sánh vai với các bậc thầy của thời xa xưa không phải là một việc đơn giản. Tuy nhiên, nếu tinh tấn tu hành, chúng ta có thể thấy được lý Đạo mà đứng ngang hàng với các vị Tổ. Chúng ta phải phát những hạnh nguyện cao đẹp nhất mà không được tỏ thái độ cao ngạo.


 Những điều này là những điều tự nhiên, nhưng thường thường chúng ta không thấy rõ được vì chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng “tâm viên ý mã” không kiểm soát được. Nếu chúng ta có thể lìa ra mà quán sát được tâm viên ý mã đó, ta sẽ có thể hòa nhập tâm trong công việc được. Làm như vậy là ta đã chuyển được Pháp trong khi đang bị Pháp chuyển. Điều cần yếu là phải có cái nhìn thấu tỏ và hài hòa đời sống với công việc, ở trong trí tuệ cao siêu mà vẫn sống trong lòng thực tế.


 Khi lấy một lá rau để sửa soạn đồ ăn, hãy coi đó là biểu hiện của sự vận dụng toàn hảo của tánh Phật, và nhân đó tánh Phật cũng được hiển lộ tròn đầy nơi lá rau. Đó là cái năng lực không thể nghĩ bàn, vận dụng ứng hóa thật tự nhiên trong mỗi hoàn cảnh. Đồng thời, năng lực đó cũng vận dụng trong đời sống chúng ta khiến chúng ta biết rõ và làm được những hành động lợi lạc cho chúng sanh.


 Sau khi đã sửa soạn xong bữa ăn, dọn dẹp sạch sẽ rồi xếp tất cả lại cho ngăn nắp, để mọi thứ đâu vào đấy không sót cái nào. Khi tiếng chuông hay tiếng trống báo hiệu đánh lên, buổi sáng cũng như buổi tối, hãy cùng mọi người vân tập đến tăng đường để cùng đại chúng tu học với thầy.


 Khi trở về phòng, hãy nhắm mắt lại và đếm nhẩm số người hiện diện trong tăng đường. Đừng quên những sư huynh lớn tuổi hoặc đã về hưu không có mặt, hay những người đang bị bệnh; kể cả những vị mới đến hay đang đi nghỉ phép. Đừng bỏ sót một ai cả, nếu có điều gì thắc mắc hay nghi ngờ, hãy kiểm chứng lại với các vị trưởng ban hoặc những người phụ trách các phòng ốc.


 Khi đã biết con số đích xác rồi, hãy tính toán phải làm bao nhiêu đồ ăn, cần đến bao nhiêu hạt cơm thì nấu bấy nhiêu hạt gạo. Một hạt cơm có thể được chia làm hai, hay có khi ba, bốn phần; ngược lại, có khi một hạt cơm lại chỉ bằng nửa phần hay hai nửa, tùy theo nhu cầu và hoàn cảnh mỗi lúc. Phải biết sự gia giảm số lượng của mỗi phần sẽ khiến tổng số cung cấp thực phẩm khác nhau như thế nào.


 Cho đại chúng ăn một hạt cơm của Lô Lăng, vị phạn đầu ấy là Qui Sơn. Ăn hạt cơm ấy có thể trở thành con trâu. Đôi khi con trâu ăn mất Qui Sơn, đôi khi Qui Sơn lại chăn trâu!*


 *(Đoạn này nhắc đến những điển tích sau:


1- Một vị tăng hỏi thiền sư Hành Tư ở Thanh Nguyên: “thế nào là tinh yếu Phật pháp?” Thiền sư hỏi lại: “Giá gạo ở Lô Lăng như thế nào?” 


 2- Qui Sơn Linh Hựu một hôm thượng đường bảo đại chúng: “ Sau khi lão tăng trăm tuổi sẽ trở thành một con trâu dưới núi, hông bên trái có đề chữ “Qui Sơn tăng Linh Hựu”. Gọi ta là Qui Sơn tăng, thì thấy đó là con trâu. Còn nếu gọi ta là con trâu, lại thấy đó là Qui Sơn tăng. Vậy gọi thế nào mới đúng?”)

 


 Hãy suy ngẫm lại xem đã định lượng nhân số và tình hình đúng mức chưa, rồi tính toán cho hợp lý. Kiểm tra lại tất cả mọi thứ, và khi đã nắm vững mọi chi tiết rồi thì sẵn sàng điều động mọi người trong bếp theo như đã định. Thực hành như vậy, ngày qua ngày, tùy duyên mà ứng phó công việc, xem trâu và Qui Sơn như một tuy tướng thấy hiện như hai (tánh bất nhị); trong đời sống hàng ngày, đừng bao giờ quên điều đó.


 Khi có ai đến chùa muốn cúng dường tiền bạc cho thực phẩm của chư tăng, hãy tham khảo với các trưởng ban khác số tiền phải cần dùng đến . Đây đã trở thành một tập quán trong cộng đồng Phật giáo từ bao thế hệ nay. Còn nếu có những phẩm vật khác cúng dường có thể đem chia ra được, cũng phải tham khảo với các trưởng ban khác. Nói cách khác, không nên lạm quyền vào lãnh vực của những trưởng ban khác mà tùy tiện quyết định những việc ngoài thẩm quyền của mình.


 Khi đồ ăn đã nấu xong và sẵn sàng bầy sẵn trong khay để đem ra, buổi sáng cũng như buổi trưa, mặc áo cà sa vào, trải tọa cụ xuống, thắp hương rồi lậy chín lậy hướng về tăng đường. Xong xuôi, đem đồ ăn vào tăng đường.


 Ngày cũng như đêm, công việc sửa soạn nấu ăn phải được làm cẩn thận, không lãng phí một giây phút nào. Nếu dùng hết tâm sức để làm công việc của mình theo sát với mọi tình hình và hoàn cảnh, hạt giống Bồ Đề sẽ nẩy mầm và phát triển, đem lại sự an lạc cho tất cả mọi người. 

 

 Tuy rằng Phật Pháp đã được truyền vào Nhật Bản mấy trăm năm nay, nhưng tôi chưa thấy ai viết về công việc nấu và phục vụ bữa ăn cho tăng chúng như một biểu hiện sống thực của Pháp Phật, cũng không có một vị thầy nào dạy về những việc này, đừng nói đến những chi tiết như phải lậy chín lậy trước khi đem món ăn lên. Cách thực hành tu tập như vậy chưa bao giờ được người xứ Nhật Bản này để ý đến, vì thế, người ta ăn mà không biết gì đến công phu sửa soạn bữa ăn đó như thế nào, chẳng khác gì những con vật hay những con chim vậy. Thật đáng tiếc, tôi cảm thấy buồn lòng khi nghĩ đến điều đó. Tại sao lại như vậy được?


 Khi tôi ở núi Tiantong, có một vị tăng tên là Lu từ Qingyuan Fu làm công việc phạn đầu. Một hôm, sau bữa ăn trưa, khi đang đi bộ dọc hành lang phía đông đến một điện khác trong tự viện, tôi thấy Lu đang phơi nấm trong nắng trước cửa Phật điện. Ông ta cầm một cái gậy tre trong tay, nhưng không có đội mũ gì cả. Aùnh nắng mặt trời gay gắt tỏa xuống những viên gạch trên lối đi, khiến những bước chân nóng bỏng. Lu đang làm việc rất tận tình, trông ông ta có vẻ thật cực khổ , người ướt đẫm mồ hôi, lưng còng xuống như cái cung, và đôi lông mày trắng xóa như lông hạc vậy. Tôi đến gần, hỏi ông bao nhiêu tuổi. Ông trả lời rằng ông đã sáu mươi tám tuổi rồi. Tôi hỏi tiếp, sao ông không có người nào phụ làm việc này? Ông nói:


- Những người khác không phải là tôi.


- Bạch thầy, theo như tôi thấy thì đây cũng là một cách tu tập của ngài. Nhưng tại sao ngài phải làm việc cực nhọc trong trời nắng gắt như vậy làm gì?


- Nếu không làm bây giờ, thì làm lúc nào?


 Tôi không còn nói được gì nữa. Khi tiếp tục đoạn đường đi trên hành lang , tôi chợt nhận ra ý nghĩa quan trọng của công việc điển tọa.


 Tôi đến Trung Quốc vào tháng tư năm 1223, nhưng vì chưa được lên bộ ngay, tôi phải ở lại trên tầu trong hải cảng Ningbo. Một ngày vào tháng năm, trong khi đang nói chuyện với vị thuyền trưởng, một vị sư già vào khoảng sáu mươi tuổi bước lên tầu với ý định mua nấm thẳng từ những thương gia Nhật Bản. Tôi mời ông ấy uống trà và hỏi ông đến từ đâu. Oâng nói ông là điển tọa ở chùa trên núi Ayuwang, và thêm rằng,


 “Tôi xuất thân từ Xishu, mặc dù tôi đã bỏ xứ đi hơn bốn mươi năm nay rồi. Bây giờ tôi sáu mươi mốt tuổi và đã tu qua vài thiền viện ở xứ này. Khi đại sư Daoquan trở thành viện trưởng trụ trì ở chùa Guyun trên núi Ayuwang, tôi đến đấy tham học nhưng vì thiếu căn cơ nên lãng phí thời gian mà chẳng thụ đắc được bao nhiêu. May sao, tôi được chỉ định làm điển tọa năm ngoái, khi khóa kiết hạ vừa chấm dứt. Ngày mai là mồng năm tháng năm (lễ Đoan Ngọ), nhưng tôi không có món gì đặc biệt để cúng dường chư tăng, nên tôi nghĩ mình hãy nấu một món mì ngon , nhưng ở chùa không có nấm, nên tôi đến đây để mua một ít.”


 “Thầy rời núi Ayuwang lúc nào?” Tôi hỏi.


 “Sau bữa ăn trưa.”


 “Từ đây đến đó bao xa?”


 “Khoảng mười bốn dặm.”


 “Khi nào thầy định trở về chùa?”


 “Ngay sau khi tôi mua nấm xong.”


 Tôi nói, “Hôm nay thật là duyên may cho tôi được gặp và nói chuyện với thầy như thế này. Nếu có thể, xin mời thầy ở lại cho tôi được cúng dường bữa ăn.”


 “Thật tiếc quá, tôi không thể ở lại bây giờ được. Nếu tôi không có ở chùa để sửa soạn bữa ăn ngày mai, mọi sự sẽ không được tốt đâu.”


 “Nhưng chắc chắn là một ngôi chùa lớn như Ayuwang phải có người khác biết nấu cơm chứ? Nếu ngài không có ở đó, họ cũng không bị trở ngại gì, phải không?”


 “Tôi đã được giao cho nhiệm vụ đó ở số tuổi này. Nói đúng ra, đó là công việc của một người già. Làm sao tôi có thể giao cho người khác việc chính tôi phải làm được? Hơn nữa, khi rời chùa tôi không xin phép đi qua đêm.”


 “Nhưng tại sao, ở tuổi này thầy lại phải làm công việc nặng nhọc của một điển tọa? Sao không thực tập tọa thiền hay tham khán những công án của các vị đại sư ngày xưa? Làm công việc điển tọa này có ích lợi gì không?”


 Vị sư phá lên cười, nói rằng, “Ông bạn nước ngoài ơi! Ông chưa thực sự hiểu được thế nào là tu cũng như chữ nghĩa của các vị tổ ngày xưa.”


 Nghe vậy, tôi lấy làm xấu hổ và ngạc nhiên. Tôi hỏi, “Cái gì là tu? Cái gì là chữ nghĩa?”


 Ông trả lời, “Hãy nghiền ngẫm thấm thấu câu hỏi đó, bạn sẽ tìm được Đạo.”


 Lúc ấy, tôi không hiểu được ý nghĩa lời ông nói, nên vị sư bảo,


 “Nếu bạn không hiểu, hôm nào đến núi Ayuwang thăm tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện về ý nghĩa của chữ nghĩa.” Nói xong rồi, ông đứng lên, “Trời sắp tối rồi, tôi phải về ngay bây giờ.” Rồi ông đi.


 Tháng bẩy năm đó tôi đang ở núi Tiantong thì vị điển tọa chùa ở núi Ayuwang đến thăm tôi nói rằng, “Sau khóa kiết hạ này tôi sẽ về hưu không làm công việc điển tọa nữa và sẽ trở về quê. Nghe một vị tăng bạn nói ông đang ở đây, tôi đến thăm ông xem lúc này như thế nào.”


 Tôi vui mừng đón tiếp ông, mời uống trà rồi đàm đạo. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, sau cùng nói đến câu chuyện hôm trước về chữ nghĩa và tu, vị sư nói.


 “Nếu muốn hiểu chữ nghĩa ông phải biết nhìn thẳng vào chữ nghĩa để biết đó là gì, nếu muốn tu Đạo ông phải hiểu tu là gì.”


 Tôi lại hỏi ông, “Cái gì là chữ nghĩa?”


 “Một, hai, ba, bốn, năm”. Ông trả lời.


 “Thế nào là tu?”


 “Hiện cùng khắp, không che dấu ở đâu cả.”


 Tuy rằng chúng tôi còn nói nhiều điều nữa nhưng tôi không muốn đề cập đến ở đây. Quả thực những điều tôi hiểu biết về chữ nghĩa và tu tập phần lớn là nhờ vị điển tọa này đã khai thị cho. Khi tôi kể lại cho vị thầy đã quá cố của tôi là Myozen câu chuyện này, ngài rất vui mừng.


 Sau này, tôi tìm thấy một bài kệ mà thiền sư Tuyết Đậu đã viết cho đệ tử của ngài:


  “Một, bẩy, ba, năm.

 Chân lý tìm cầu không thể nắm bắt được.

 Trong trời đêm,

 Trăng sáng chiếu khắp trên đại dương.

 Trân bảo hắc long hiện trên từng ngọn sóng

 Tìm trăng ở đâu,

 Ở ngay đây, trong ngọn sóng này

 Và ngọn sóng tới.”

 


 Tôi chợt nhận ra điều vị điển tọa đã nói cũng trùng hợp với những gì Tuyết Đậu muốn nói đến trong bài kệ này. Tôi càng nhận rõ hơn là vị điển tọa ấy đã thực sự sống được với Đạo.


 Trước đây tôi biết một, hai, ba, bốn, năm; bây giờ tôi biết được sáu, bẩy, tám, chín, mười. Các người tu học Phật bây giờ cũng như về sau phải hiểu được sự tu và ý nghĩa của chữ nghĩa từ mặt này qua mặt kia. Hãy tinh tấn nỗ lực, bạn sẽ hiểu được ý Thiền vượt ngoài chữ nghĩa luận bàn. Nếu không, sẽ có thể bị dẫn sai lạc theo tà kiến mà không thể làm được thiện xảo công việc nấu ăn phục vụ cho đại chúng được. 


 Những câu chuyện về các bậc cao tăng đã từng làm điển tọa như Quy Sơn và Động Sơn đã được truyền lại từ nhiều thế hệ từ xưa tới nay. Ngoài hai vị ở chùa núi Tiantong và Ayuwang tôi đã nói chuyện, tôi cũng gặp được nhiều vị điển tọa trong các chùa khác. Nếu xét kỹ những câu chuyện này ta có thể thấy được đây là sự tu hành chân chính theo đúng Pháp, và có thể hiểu được ý nghĩa của chữ nghĩa cũng như bản chất của sự tu hành. Thực sự ra, làm việc điển tọa chính là sự tu hành của một vị Phật, không lấy gì so sánh được. Ngay cả những vị đã lên chức trụ trì rồi cũng vẫn phải giữ lối tu như vậy.


 Trong “Thiền uyển thanh quy” có nói như sau: “Hãy sửa soạn mỗi bữa ăn thật chu đáo cho đầy đủ. Đừng thiếu sót trong tứ sự cúng dường (cơm, áo, giường, thuốc). Đức Phật đáng lẽ đã sống tới 100 tuổi, nhưng ngài đã nhập Niết Bàn vào tuổi 80, nhường lại 20 năm cho những đệ tử của ngài. Ơn phước đó vẫn còn trải đến cho chúng ta tới ngày nay, chỉ cần tiếp được một tia hào quang trí tuệ tỏa chiếu từ giữa đôi lông mày của ngài cũng khiến chúng ta được hưởng công đức vô lượng.” Sách lại nói tiếp: “Hãy nghĩ cách làm sao phục vụ đại chúng thật toàn hảo mà không sợ bị túng thiếu. Nếu tâm vô lượng, sẽ được phúc đức vô lượng.” Vị trụ trì phải phục vụ đại chúng với một thái độ như vậy.


 Trong khi sửa soạn thức ăn, điều thiết yếu là phải chân thành và tôn trọng những vật liệu, không phân biệt ngon hay dở. Hãy nhìn gương của bà lão đã cúng dường Đức Thế Tôn nước rửa gạo và được phước đức lớn trong đời sau. Hay nhớ đến hành động của vua Asoka, lúc hấp hối trên giường đã cúng dường một nửa quả soài đến một ngôi chùa, và nhờ công đức ấy đã nhập được Niết Bàn. Một cúng dường nhỏ nhặt nhất với tâm thành cũng là một duyên lành trên con đường Phật đạo hơn là cúng dường những tài vật lớn lao mà tâm không chân thành. Chúng sanh phải biết tu như vậy.


 Một món ăn ngon đầy những vật liệu bổ dưỡng không hẳn là tốt hơn một món cháo với những rau cỏ đạm bạc. Khi lặt những món rau tầm thường, hãy làm với hết tâm ý, với một tâm trong sáng, không cân nhắc gì đến chất lượng y như là đang sửa soạn một buổi tiệc linh đình vậy. Những giòng sông từ khắp nơi chẩy về đại dương sẽ nhập một và chỉ còn một vị chung của biển, cũng vậy khi tất cả chúng tăng nhập vào biển Pháp lớn thanh tịnh thì chỉ còn một vị của Giác Ngộ. Những thực phẩm để nuôi thân, dù ngon bổ hay đạm bạc đều không phân biệt. Người xưa có câu: “Miệng người tu như một cái lò lửa”*. Hãy nhớ kỹ như vậy.


(* Câu nói này trích từ Soei-shu, một bản văn của tông Thiên Thai mà đầu tiên Đạo Nguyên đã học tới. Trong bản văn đó, Katyayana Sonja nhận lời mời ăn tiệc với một vị vua. Tuy nhiên, vị vua này ngoài những món ngon vật lạ cũng dọn lên một ít món tầm thường. Katyayana Sonja chẳng tỏ vẻ vui thích gì khi ăn những món ngon, cũng không khó chịu gì khi ăn những món dở. Cuối cùng, nhà vua không nhịn nổi, hỏi Katyayana tại sao lại có thái độ như vậy. Katyayana trả lời, “Miệng của người tu giống như một lò lửa. Lò lửa khi đốt chẳng phân biệt đó là gỗ quý hay đống phân, miệng của người tu cũng vậy. Không nên phân biệt món ăn ngon hay dở, chúng ta phải hài lòng với những gì nhận được.”)


 Hãy nhớ rằng một món rau đạm bạc có thể nuôi dưỡng hột giống Bồ Đề và làm nẩy mầm chí nguyện muốn sống Đạo. Đừng có xem thường chúng. Một vị thầy tuyên giảng Pháp cho trời và người phải biết tận dụng bất cứ thứ rau gì đang có trong tay.


 Cũng vậy, đừng phán đoán những vị sư nào đáng kính hay không đáng kính, cũng đừng để ý xem người nào tu lâu hay mới tu. Tự mình còn chưa đứng vững, làm sao có thể phán đoán người khác vững hay không? Xét đoán người khác trong cái thiên kiến hạn hẹp của chính mình, làm sao có thể thấy đúng được? Tuy rằng có khác biệt giữa những người đi trước và đi sau, giữa người có trí tuệ và người không có trí tuệ, nhưng tất cả đều là những thành viên đáng quý của tăng chúng. Một người có thể đã sai lầm trong quá khứ nhưng nay đã thay đổi và đúng trong hiện tại. Ai có thể phán xét được đâu là thánh, đâu là phàm? “Thiền uyển thanh quy” nói rằng: “Dù có trí tuệ hay ngu si, một người đã tu hành cũng có thể đem lại những lợi lạc quý giá cho tất cả pháp giới chúng sanh.”


 Không để tâm chấp trước vào những định kiến về phải và trái là đang thực hành pháp tu để đạt được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tuy chúng ta đã có duyên may gặp được Phật pháp, nhưng chỉ cần một bước đi sai lầm cũng có thể lạc hướng không thấy được Đạo. Tâm bình đẳng đó chính là cốt tủy trong sự tu hành của những vị tổ ngày xưa, và những vị phạn đầu của ngày mai sẽ nhận ra được tinh yếu đó khi để hết tâm ý vào công việc làm. Chúng ta phải luôn luôn bảo tồn thanh quy thiền viện do đại sư Bá Trượng Hoài Hải đã soạn thảo trước đây.

 


 Sau khi trở về Nhật Bản, tôi ngụ tại chùa Kennin-ji trong khoảng hai năm. Ơû đó cũng có ban điển tọa, nhưng chỉ là trên danh nghĩa, vì không có ai thực sự làm công việc này trong tinh thần đạo pháp cả. Họ không hiểu đó chính là những hoạt động của sự giác ngộ, thì làm sao xem đó như một phương tiện tu hành được? Thật là đáng buồn. Người điển tọa ở đây vì chưa bao giờ được gặp một tấm gương sống động của một vị điển tọa giác ngộ, nên ông ta giải đãi lơ là trong công việc, phá vỡ những tiêu chuẩn của sự tu hành.


 Tôi theo dõi sát những hoạt động của vị điển tọa ở đó. Ông ta không bao giờ thực sự làm việc sửa soạn nấu nướng cho những bữa ăn sáng và trưa, mà chỉ sai mấy tên đầy tớ thô kệch, vừa vô trí, vừa vô tình, giao phó cho chúng muốn làm gì thì làm, chẳng cần kiểm soát xem chúng làm việc có đúng hay không, như thể là công việc xem xét bếp nước, vo gạo lặt rau là đáng xấu hổ như liếc trộm vào phòng the của nữ giới bên láng giềng vậy. Ông chỉ loanh quanh trong phòng nằm chơi, hoặc chuyện trò với người khác, nếu không đọc sách hay tụng kinh. Chưa bao giờ tôi thấy ông đến gần một nồi cháo, đừng nói chi đến việc đi mua những vật phẩm cần thiết hay soạn thảo thực đơn cho chùa. Ông không biết rằng làm những việc đó chính là tu hành theo Phật đạo. Nghi thức mặc áo cà sa vào lậy chín lậy trước khi dọn cơm ra cho đại chúng là điều ông không bao giờ tưởng tới được. Vì không hiểu được thực chất của công việc, làm sao ông có thể chỉ dạy lại cho những người đến sau? Thật đáng tiếc vô cùng.


 Tuy một người có thể may mắn được chỉ định làm công việc điển tọa, nhưng nếu người ấy không có một Đạo tâm, và không có duyên được gặp người đạo hạnh để học hỏi, thì đó cũng giống như là leo lên một núi châu báu hay đi xuống một biển trân ngọc mà chẳng đem ra được gì.


 Nhưng nếu không có được tâm Bồ Đề, mà gặp được một người tu hành chân chính, người ấy cũng có thể được khai thị để thấy được chánh đạo. Và dù cho có không gặp được một vị chân sư , nhưng có một tâm nguyện sâu xa muốn cầu Đạo, chắc chắn người ấy sẽ có cơ duyên gặp được chánh pháp. Còn nếu cả hai điều kiện đó đều không có, làm sao có thể tu và sống đạo giác ngộ được?


 Trong nhiều thiền viện trên núi mà tôi đã đi qua ở Trung Quốc thời nhà Tống lúc ấy, những vị tăng thường được giao đảm nhiệm những việc trong các ban của chùa trong vòng một năm, mỗi người đều thực hành từng giây từng phút những tiêu chuẩn sau: thứ nhất, làm lợi lạc cho người khác là lợi lạc cho chính mình; thứ hai, nỗ lực làm cho cộng đồng được tốt đẹp hơn; thứ ba, noi gương các vị hiền thánh tăng trong thời quá khứ để nối gót và vượt qua được các ngài.


 Hãy hiểu rõ như thế này: người ngu coi mình khác với mọi người; còn người trí coi mọi người đều như mình.


 Cổ đức có câu:


 Hai phần ba cuộc đời đã đi qua

 Mà vẫn chưa tu để biết mình là ai

 Ngày tháng xoay vần trong những điều ham muốn

 Để khi được gọi, không biết ngoảnh nhìn lại.

 Thật đáng tiếc!


 Như thế, ta thấy nếu không gặp được một chân sư, ta sẽ bị lôi cuốn theo những cảm xúc và tình cảm của mình. Đó cũng như câu chuyện tên lãng tử con nhà trưởng giả có của báu gia truyền trong tay mà phung phí đi (trong kinh Liên Hoa). Cũng vậy, đã biết được công việc phạn đầu có lợi lạc thì không được làm lãng phí đi.


 Nhìn lại những bậc tiền bối đã làm công việc điển tọa trong tinh thần thực hành Đạo pháp, ta thấy cách họ làm việc đã thể hiện thật đúng với đạo hạnh của họ. Linh Hựu đã giác ngộ khi làm việc phạn đầu dưới trướng của Bá Trượng.* Câu chuyện ba cân gai cũng xẩy ra khi Động Sơn còn đang làm việc phạn đầu*. Còn có điều gì quý hơn sự ngộ đạo, còn có lúc nào quý hơn lúc ngộ đạo?


 *(1- Qui Sơn Linh Hựu lúc còn làm phạn đầu trên núi Bá Trượng, một hôm đứng hầu thầy. Bá Trượng hỏi:


 “Ai?”


 Sư thưa: “Con, Linh Hựu.”


 Bá Trượng bảo: “Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng?”


 Sư vạch ra, bảo: “Không lửa.”


 Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ cho sư: “Ngươi bảo không, cái này là cái gì?”


 Qui Sơn nhân đấy phát ngộ, lễ tạ rồi trình lên thầy chỗ giải ngộ của mình. Bá Trượng bảo:


 “Đây mới chỉ là khúc rẽ, chưa phải con đường chính. Kinh nói:”Muốn thấy tánh phải quán nhân duyên hiện thời, đến thời đốn ngộ giống như đang mê chợt tỉnh, như đang quên chợt nhớ, nếu quán cho rõ, thấy đó chính là mình chứ không phải gì khác từ ngoài vào. Tổ sư bảo: “Ngộ rồi cũng như chưa ngộ, không tâm thì không thấy đắc pháp.


 Không có gì tạo tác trong thực tại. Cả thánh lẫn phàm nhân đều sống đời sống thực tại không thể so sánh được của mình như nhau. Trên căn bản, tất cả đều không có gì là khiếm khuyết cả. Trước sau gì, ta cũng vẫn là ta. Hãy để ý điều đó!”


 2- Động Sơn Thủ Sơ sống vào khoảng năm 807-69. Trong Bích Nham Lục, Công án Động Sơn Ba Cân Mè là công án thứ 12: “Tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ: “Thế nào là Phật?” Động Sơn đáp: “Ba cân mè.”)


 Nếu kể ra tỷ dụ của những tấm lòng thành cầu đạo thì không kể xiết, chẳng hạn như cậu bé đưa nắm cát ra cúng dường Phật, xem đó như một kho báu quý giá vô cùng, hay người vẽ hình Phật và kính cẩn tôn thờ hình ảnh đó, sau này được phước báo lớn. Những nhiệm vụ cũng như tên “điển tọa” vẫn chưa thay đổi từ trăm năm nay, tại sao khi được giao phó cho việc đó chúng ta lại thất bại không làm tròn nhiệm vụ của điển tọa, không biết bắt chước người xưa ứng dụng Đạo vào thực tế trước mắt?


 Khi làm những công việc của chùa, chúng ta phải làm với ba tâm là hỉ tâm, lão tâm, và đại tâm. “Hỉ tâm” là tâm vui vẻ và biết ơn. Hãy nghĩ rằng nếu bạn có phước được sinh vào cõi trời, bạn sẽ quyến luyến ràng buộc trong những cảnh dục lạc đó, rồi không còn có thì giờ hay tâm trí đâu muốn tu để giác ngộ đạo Bồ Đề, lại càng không có cơ hội sửa soạn bữa ăn cúng dường Tam Bảo, bởi vì Tam Bảo ( Phật Pháp Tăng) là cao quý không gì sánh bằng, kể cả những vị vua trong cõi trời người.


 “Thiền uyển thanh quy” viết: “Tăng là quý giá hơn hết thẩy, vì họ sống một cuộc đời cao thượng vượt lên trên những vấn đề thế gian nhỏ mọn tầm thường.” 


 Chúng ta thật may mắn đã được sinh ra làm người, lại còn được giao nhiệm vụ nấu nướng cúng dường Tam Bảo. Chúng ta phải thành thực hoan hỉ và biết ơn điều đó.


 Chúng ta cũng phải quán lại xem nếu chúng ta sanh ra bị đọa vào một trong bốn ác đạo như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hay quỷ sứ, cuộc đời chúng ta sẽ khó khăn và bất hạnh biết bao. Hoặc nếu bị sanh vào tám cõi khó (ngoài bốn ác đạo trên, sanh vào bốn cõi: không có Phật pháp, bị tàn tật, bị giam hãm trong thành kiến xã hội, trong thời Phật pháp bị tận diệt), chúng ta sẽ không có duyên may được tu tập với sức mạnh chung của tăng chúng, đừng nói gì đến việc được tự tay sửa soạn những bữa ăn cúng dường Tam Bảo. Thân và tâm chúng ta sẽ bị cột chặt trong những giới hạn của thân phận, chỉ còn là vật chứa những gánh nặng khổ đau.


 Vì vậy, chúng ta hãy vui mừng sống cuộc đời này, vui mừng vì được tự do xử dụng thân này làm những việc cúng dường Tam Bảo. Đây là một cơ hội hiếm có từ vô lượng kiếp cho tới nay, công đức ấy sẽ kéo dài vô tận. Tôi thành thực mong muốn bạn sẽ làm việc và nấu nướng trong tinh thần như vậy, lấy “thân người khó được” này làm phương tiện đem lợi ích lại cho vô lượng chúng sanh. Hiểu rõ cơ duyên này là có một tâm hoan hỉ, vì cho dù bạn có được sinh ra làm chúa tể thế giới đi nữa, phước báo đó rồi cũng tan đi như bọt bóng, như ánh chớp mà thôi.


 “Lão tâm” (tâm cha mẹ) là tâm luôn nghĩ đến Tam Bảo, như cha mẹ nghĩ đến con. Cha mẹ nuôi con với tất cả tấm lòng, dù cho có nghèo khó thiếu thốn tới đâu chăng nữa. Cái tâm ấy chẳng ai thấu được, chỉ người làm cha mẹ mới hiểu được. Cha mẹ che chở con khỏi nóng khỏi lạnh trước khi nghĩ đến thân mình. Tâm tình ấy chỉ những người đã từng nghĩ như vậy và làm như vậy mới có thể hiểu được. Trong đạo pháp, lão tâm được ứng dụng trong việc phục vụ chúng sanh, khi nấu ăn chăm chút cho gạo và nước như chăm cho con mình vậy. 


 Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã ban cho chúng ta hai mươi năm cuối cùng của cuộc đời ngài để bảo vệ chúng ta qua được những ngày của thời Mạt Pháp này. Đó không gì khác hơn là “lão tâm”. Đức Như Lai làm việc ấy chẳng phải cho ích lợi của chính mình mà hoàn toàn do lòng từ bi tự nhiên mà thôi.


 “Đại tâm” là tâm vững chắc như núi, bao la như biển, có cái nhìn rộng rãi dung chứa hết mọi mặt. Tâm này không chấp vào những thành kiến, không có phân biệt đối đãi, chẳng cho một gram là nhẹ, cũng không thấy năm kí lô là nặng. Tâm ấy không chạy theo tiếng suối chẩy, hay buồn vui theo cảnh sắc xuân thu bốn mùa, xem sự thay đổi bốn mùa như một vận hành chung, chẳng phân biệt bên trọng bên khinh. Hãy hiểu ý nghĩa như thế khi viết và học về chữ “Đại”.


 Nếu người điển tọa ở Jiashan không học được chữ “Đại” ấy, ông đã không thức tỉnh được Fu hòa thượng bằng tiếng cười của mình.* Nếu thiền sư Qui Sơn không hiểu được chữ “Đại”, ngài đã chẳng thổi khúc cây ba lần trước khi đưa cho thầy.* Nếu Động Sơn không hiểu được chữ “Đại”, ngài đã không dạy vị tăng kia với câu “Ba cân mè”.


 *(1) Hờa thượng Daiyuan Fu một hôm giảng về kinh Đại Bát Niết Bàn ở Guangkao-Xiao thuộc Yangzhou. Có vị phạn đầu từ Jiashan du hành qua các chùa đến nghe giảng. Daiyuan Fu đang giảng về ba thân Phật và ba hạnh của Pháp thân Phật thì vị phạn đầu kia bật cười lớn. Sau khi giảng xong, Daiyuan Fu mời vị phạn đầu đến phòng hỏi, “Tôi là người thô thiển nên chắc những lời giảng về kinh của tôi là nông cạn. Tôi thấy ngài không nhịn được cười khi tôi nói về Pháp thân Phật, vậy xin ngài từ bi chỉ dạy cho tôi sai chỗ nào?” Phạn đầu nói, “Ngài chỉ nói lại những lời trong kinh nên không phải là sai chỗ nào. Có điều là ngài không biết ngài đang nói gì thôi.” Sau đó, Daiyuan Fu không thuyết pháp nữa, mà lo tìm thầy học đạo thêm.


(2) Qui Sơn Linh Hựu khi còn học với Bá Trượng một hôm hai thầy trò đi vào rừng làm việc. Bá Trượng bảo, “Đem cho ta chút lửa.” Qui Sơn nói, “Thưa thầy có ngay”, sau đó đưa một khúc cây về, Bá Trượng bảo, “Lửa đâu?” Qui Sơn xoay khúc cây lại, thổi ba cái rồi đưa lại cho Bá Trượng. Bá Trượng nhận.


 

 Tất cả những bậc đại sư từ trước tới nay đã thấu rõ được ý nghĩa của chữ “Đại” này, không chỉ qua ngôn từ mà còn qua những kinh nghiệm và hành động trong cuộc đời. Như thế, cuộc đời họ đã là một tiếng vang sư tử hống vẫn còn truyền cho đến nay để những kẻ hậu học như chúng ta được khai thị thấy chân lý sống thực của Đạo ở trong Đời, Lý ở trong Sự không tách rời nhau .


 Các vị trụ trì, viên chức trong các ban, cũng như tất cả chúng tăng đều phải hành trì với ba hỉ tâm, lão tâm và đại tâm này.



  Đo Nguyên


  (Viết năm 1237 cho những thế hệ về sau)


 Ngọc Bảo phóng dịch



Vài lời mạn bàn:

 


 Trong các hoạt động của con người, nấu bếp là một hoạt động cơ bản nhất. Dù có đi tu cũng không bỏ được nhu cầu ăn uống, nhất là khi sống trong một tập đoàn, như ở chùa chẳng hạn, thì công việc nấu bếp cho tập thể trở thành một công việc quan trọng. “Có thực mới vực được đạo”, dù đạo có cao siêu tới đâu con người cũng phải nuôi dưỡng thân mình mới có sức lực và trí tuệ để thực hành đạo pháp. Nhưng việc nấu bếp cũng hay bị xem là tầm thường, thấp kém hơn những việc khác như học kinh sách, tụng kinh hay ngồi thiền. Tuy nhiên, chính việc nấu bếp lại là một cách tu thiết thực nhất để rèn luyện thân tâm, một phương tiện tọa thiền ngay trong lòng hoạt động hàng ngày. Thiền sư Đạo Nguyên đã được khai thị cho điều đó khi ngài sang Trung Quốc tu học và có duyên may gặp gỡ những vị sư làm việc phạn đầu có tâm hạnh chân chính.


Tuy bài giáo huấn này là cho những vị làm công việc điển tọa của một ngôi chùa ở Nhật Bản trong một thời đại cách đây gần 10 thế kỷ, nhưng những lời dậy ấy vẫn có lợi ích thiết thực cho chúng ta trong thời hiện đại ngày nay.


 

Làm việc với Đạo Tâm là Tọa Thiền.


Công việc phạn đầu của thời xưa là một công việc khó nhọc, mất rất nhiều công sức và thời giờ. Vì vậy, người làm điển tọa trước hết phải có Đạo tâm mới làm được công việc này một cách lợi lạc. Đạo Tâm có nghĩa là có tâm hướng về Đạo, thấy Đạo thể hiện ngay trong đời sống, nên làm mọi việc hết sức mình như một cách hành trì Đạo pháp để làm lợi lạc cho chúng sanh. Trong bài giảng có câu: “Với người điển tọa, tâm Đạo được thể hiện qua sự xăn tay áo lên làm việc.”


Xăn tay áo lên làm việc trong sựï chú tâm hoàn toàn, và trước mắt không thấy gì khác hơn là công việc đó, trên thực chất, đó làø thực hiện pháp môn Tọa Thiền. Công việc điển tọa chính là một phương tiện thiện xảo để thực hành pháp môn này, tự lợi và lợi tha, nên từ xưa đã có nhiều vị tổ sư Thiền xuất thân từ công việc nấu bếp, như Quy Sơn, Động Sơn v.v... Chúng ta cũng đừng quên rằng, lục tổ Huệ Năng khi mới lên núi Hoàng Mai xin thọ giáo với tổ Hoằng Nhẫn đã được giao cho làm việc phụ bếp trong suốt tám tháng trường, trước khi được ngũ tổ để mắt đến.


Lục tổ Huệ Năng đã giải thích như sau về pháp môn Tọa Thiền:


“Pháp môn này không chướng không ngại, vượt ngoài mọi thiện ác, tâm không khởi niệm chấp trước phân biệt gọi là Tọa, thấy được tự tánh như như bất động gọi là Thiền. Thế nào là Thiền Định? Ngoài lìa tướng (không chấp tướng, chấp cảnh) tức là Thiền, trong không loạn tức là Định, ngoài thiền trong định ấy gọi là Thiền Định.”


Như vậy, tọa thiền không chỉ là ngồi thiền, mà là trong mọi lúc, mọi việc, tâm đều như như bất động không cuốn hút theo vọng tưởng, không chấp trước vào những quan niệm phải trái đúng sai. Và khi tâm định rồi thì mọi việc đều sáng tỏ, chân như tự tánh thanh tịnh không còn bị che lấp.


Theo thiền sư Uchiyama thuộc tông phái Tào Động Nhật Bản của ngài Đạo Nguyên, tọa thiền được định nghĩa như sau:


Tọa thiền không phải là ngồi thiền mà cố diệt trừ vọng tưởng, làm như vậy là vọng càng chất thêm vọng. Tọa thiền là để tâm như cái gương phản chiếu tất cả những gì qua trước mắt, không chạy theo cũng không diệt trừ, để chúng đến rồi đi trong sự buông xả hoàn toàn. Như vậy, tâm nhất như với cảnh nhưng vẫn vắng lặng, biết tất cả mọi việc mà không bị những định kiến và cảm xúc làm chướng ngại. Khác với tông Lâm Tế chủ trương dùng công án làm phương tiện trước hết để được kiến tánh giác ngộ, tông Tào Động không đặt nặng vấn đề công án, mà cho là giác ngộ đã vốn có sẵn trong chúng ta, ngay bây giờ và ở đây, cho nên không cần phải tìm đủ mọi cách để kiến tánh giác ngộ, mà Tọa Thiền tự đó chính là giác ngộ, và ngay trong thế ngồi thiền đã là đầy đủ tất cả, chỉ cần buông xả hết cả thân lẫn tâm là trở về với cội nguồn giác ngộ có sẵn, không từ ngoài vào mà được, và cũng không mất đi đâu cả. Điều đó gọi là “Mặc Chiếu” , và sự dụng công trong khi ngồi thiền để giữ tâm luôn luôn tỉnh giác gọi là “Chỉ Quán Đả Tọa” . Trong “Chánh Pháp Nhãn Tàng”, Đạo Nguyên viết: “”Ngồi thiền là thể hiện Thực Tại của đời sống. Ngồi thiền là trở về với cái Tĩnh, tức là bản chất thực sự của tự tánh. Ngoài đó ra, không có chỗ nào khác để tìm kiếm.”

 


Đại Tâm là Thiền Tâm


Tâm thiền trong mọi lúc cũng là cái Đại Tâm mà ngài Đạo Nguyên đã nói đến trong bài giáo huấn về ba tâm cần thiết trong công việc phục vụ đại chúng.


“Đại tâm là tâm vững chắc như núi, bao la như biển, có cái nhìn rộng rãi dung chứa hết mọi mặt. Tâm này không chấp vào những thành kiến, không có phân biệt đối đãi, chẳng cho một gram là nhẹ, cũng không thấy năm ký là nặng. Tâm ấy không chạy theo tiếng suối chẩy, hay buồn vui theo cảnh sắc xuân thu bốn mùa, xem sự thay đổi bốn mùa như một vận hành chung, chẳng phân biệt bên trọng bên khinh.”


Vì tâm không trụ theo cảnh nên bất động, không chấp trước so đo nên bình đẳng, xem tất cả những gì tầm thường hay đắt giá đều quý trọng như nhau. Có đại tâm như vậy, người điển tọa vui vẻ chấp nhận những vật liệu được lãnh, không bao giờ phàn nàn hay thất vọng.


Chúng ta cũng như người điển tọa đi lãnh thực phẩm, khi sanh ra đều thọ nhận mỗi người một thân tướng, một tư chất và hoàn cảnh khác nhau, đó là chất liệu để chúng ta nấu nướng cuộc đời mình. Bài “Giáo huấn điển tọa” này cũng được coi như là bài “Giáo huấn về cách nấu nướng cuộc đời”. Dù xấu hay đẹp, sang hay hèn, khôn hay ngu, thuận cảnh hay nghịch cảnh, những gì đến với chúng ta là đời sống của chúng ta, không ai khác có thể kinh nghiệm được đời sống ấy. Có đại tâm là chấp nhận những gì đang có trong tay, không oán than cũng không kiêu mạn, không chạy tìm hạnh phúc an lạc cũng không trốn tránh sợ hãi đau khổ, mà luôn luôn cố gắng hết sức để làm mọi sự cho tốt đẹp, dù có nghèo hèn cũng chẳng vì thế mà bỏ bê xem thường cuộc đời mình, có giầu sang cũng không tưởng vậy là sẽ được viên mãn tất cả. Trong bài viết nói:


“Nếu chỉ có rau cỏ đạm bạc để nấu canh cũng đừng có xem khinh. Nếu có vật liệu đắt giá để làm món ăn đầy bổ dưỡng cũng đừng có coi trọng. Không yêu thích quyến luyến bữa ăn ngon, cũng không ghét bỏ trốn tránh bữa ăn dở. Đừng lơ đễnh và cẩu thả với những thực phẩm có vẻ tầm thường, và cũng đừng tưởng rằng có những vật liệu tốt thì thế nào cũng có đồ ăn ngon. Một người để tâm mình bị lung lạc theo chất lượng của đồ vật, hay thay đổi thái độ, lời nói theo tướng mạo và địa vị của người đối diện thì không phải là một đạo nhân đích thực.”

 


Trí tuệ ứng dụng vào cuộc sống


Tuy nói Đại tâm là tâm không phân biệt, tâm bình đẳng, nhưng không phải vì vậy mà thành ra vô tri, mà trong đó tiềm tàng một trí tuệ nhận biết tất cả, và trong mọi công việc đều biết tùy duyên, tùy hoàn cảnh mà ứng biến cho thích hợp. Khi nhặt gạo phải biết phân biệt gạo và thóc, sạn để lựa riêng ra, cũng vậy trong cuộc sống phải biết những việc nào nên làm và không nên làm, trong một tâm vô tư không thành kiến.


“Những đồ cần để trên cao hãy để lên cao, những đồ cần để dưới thấp thì cho xuống thấp; như vậy, trên cao hay dưới thấp, tất cả các thứ đều ở trong vị trí thích hợp vững vàng.”


 

Câu này ám chỉ đến câu chuyện Động Sơn và Ngưỡng Sơn đi thăm ruộng nói chuyện với nhau về bờ đất cao hay thấp có do mực nước hay không. Có lẽ Đạo Nguyên muốn ngụ ý rằng, phải có trí tuệ để biết giá trị cũng như sự khác biệt của người và vật mà theo đó ứng xử, nhưng không nên lấy mực thước nào ra đểø so sánh hay phê phán.


Trong một thiền viện thời xa xưa ở Trung Quốc, một ngôi chùa có rất đông tăng chúng, có khi đến cả ngàn người. Họ sống rải rác trong ngôi chùa chánh cũng như những chùa nhỏ phụ thuộc chung quanh núi. Việc kiểm điểm miệng ăn không phải là chuyện dễ dàng, thường thường dựa trên số người có mặt ở tăng đường là nơi tu học hàng ngày, nhưng cũng có những vị làm việc ở ngoài, cũng như những người bệnh ở trong phòng và khách đến thăm. Nấu một bữa ăn cũng cần phải có hoạch định kỹ càng. Sự hoạch định và sửa soạn cho một bữa ăn ngày hôm sau không đợi đến hôm sau mới làm, mà được làm ngay từ ngày hôm trước. Theo thiền sư Uchiyama, điều này có một ý nghĩa rất sâu xa. Thông thường chúng ta hay mong muốn một điều gì trong tương lai nhưng lại không sửa soạn làm điều đó trong hiện tại, để rồi với những biến đổi vô thường trong cuộc đời, ta thường bị thất vọng khi không đạt được điều đó. Ở đây, việc ngày mai được làm ngay trong ngày hôm nay, như vậy sẽ không phải lo lắng đến những bất trắc có thể xẩy ra trong ngày mai, và cái quả ngày mai chắc chắn sẽ đến do nhân làm ngay trong ngày hôm nay. Đó là sự định hướng cuộc đời mình ngay trong hiện tại.


Một ngôi chùa thường tùy thuộc nhiều vào sự cúng dường của thí chủ, nên không thể phí phạm thực phẩm, mà phải ước lượng cho thật đúng số thực phẩm sẽ được tiêu thụ, không chỉ theo đầu người, mà còn theo hoàn cảnh từng lúc, và cũng tùy theo khả năng ăn uống của đại chúng . Ví dụ như nữ giới hoặc trẻ nhỏ sẽ ăn ít hơn nam giới, hoặc nếu bữa nào nấu một món ngon thì người ta sẽ ăn nhiều hơn và trong bữa ăn sau sẽ ăn ít đi; hoặc giả nếu nấu một món mặn thì cần ít đồ ăn hơn là món nhạt v.v.. Tất cả đều phải ước lượng cho thật sát, và nấu dư thêm một chút , rồi tính toán số lượng đồ ăn có thể còn thừa lại cho bữa ăn sau. Đó là ý nghĩa của câu : “Cần đến bao nhiêu hoạt cơm thì nấu bấy nhiêu hạt gạo. Một hạt cơm có thể được chia làm hai, hay có khi ba, bốn phần; ngược lại, có khi một hạt cơm lại chỉ bằng nửa phần hay hai nửa.” Tuy tính toán chi li như vậy, nhưng tâm vẫn không bị vướng mắc vào những cảm xúc hay định kiến phàm tình, đó là làm tất cả mọi việc ở trong Đời mà vẫn không lìa Đạo, nói cách khác là sống Đạo ở ngay trong lòng Đời vậy. Phải chăng đó là ý nghĩa của câu “Giá gạo ở Lô Lăng như thế nào?” khi ngài Hành Tư được hỏi về tinh yếu Phật Pháp.


 

Chữ nghĩa và sự tu


Khi Đạo Nguyên gặp vị điển tọa đi mua nấm lúc mới qua Trung Quốc, ngài đã được vị này khai thị về công việc của điển tọa đối với chữ nghĩa và sự tu như thế nào. Để trả lời câu hỏi của Đạo Nguyên:” Chữ nghĩa là gì?”, vị điển tọa kia trả lời: “Một, hai, ba, bốn, năm.” Điều này có nghĩa gì?


“Nếu muốn hiểu chữ nghĩa phải nhìn thẳng vào chữ nghĩa để biết đó là gì.” Chữ nghĩa chỉ là phương tiện trung gian để truyền đạt, tự nó không mang một ý nghĩa tuyệt đối. Ngay trong ngôn ngữ thông thường, người ta cũng dùng nhiều từ khác nhau để diễn tả cùng một điều gì , tùy theo sự khác nhau nơi tập quán cũng như ngôn ngữ. “Một hai ba bốn năm” chỉ là chữ nghĩa, tự nó không phải là một hai ba bốn năm, nhưng hiểu như thế thì nó là như thế. Thông thường người ta hay nghiên cứu kinh điển, cho đó là một cách tốt nhất để đạt đến chân lý. Nhưng chân lý tột cùng không thể đem ngôn ngữ ra mà giải bầy được, nếu chỉ bám vào chữ nghĩa của kinh mà luận bàn thì sẽ không thể hội được ý Đạo sâu xa trong đó. 



Tuy nhiên, nếu không dùng chữ nghĩa, thì lấy gì để truyền đạt ý Đạo? Cho nên vẫn phải dùng chữ nghĩa, nhưng để diễn tả cái không thể diễn tả thì phải mượn cái này để dụ cho cái kia, lấy cái có tướng để ẩn dụ cho cái không tướng. Vì vậy tuy nương vào chữ nghĩa nhưng phải lìa tướng của chữ nghĩa ấy mới hiểu được ý, cũng như nương ngón tay đểø thấy mặt trăng, nhưng nếu không lìa ngón tay thì không thấy được mặt trăng. Điều đó sẽ không thể làm được nếu không biết nỗ lực tọa thiền. Tổ Đạt Ma nói trong Ngộ Tánh Luận: “Hiểu mà nói thì lời nói ấy là giải thoát. Không hiểu mà im lặng, sự im lặng cũng là ràng buộc. Cho nên lời nói mà lìa tướng thì lời nói ấy là giải thoát. Còn im lặng mà dính mắc nơi tướng thì im lặng ấy là ràng buộc. Chữ nghĩa vốn là giải thoát, tự nó không ràng buộc, mà chính người ta đã đem ràng buộc vào chữ nghĩa.”



Ngôn ngữ của Thiền là ngôn ngữ giải thoát không vướng mắc, mà các vị Thiền sư ngày xưa đã nói với nhau tùy theo căn cơ và hoàn cảnh để chỉ thẳng vào ý nghĩa thâm sâu. Muốn hiểu ngôn ngữ ấy phải hiểu được tâm, vì đó là ngôn ngữ của Tâm truyền Tâm. Đạo Nguyên nói: “trước đây tôi biết một, hai, ba, bốn, năm, bây giờ tôi biết được sáu, bẩy, tám, chín, mười. Các người tu học Phật bây giờ cũng như về sau phải hiểu được ý nghĩa của chữ nghĩa từ mặt này qua mặt kia. Hãy tinh tấn nỗ lực, bạn sẽ hiểu được ý Thiền vượt ngoài chữ nghĩa luận bàn.”



Khi nói đến ý nghĩa của sự tu, vị điển tọa nói: “Hiện cùng khắp, không dấu ở đâu.” Chúng ta hãy tìm hiểu chữ nghĩa và sự tu có liên hệ với nhau như thế nào. Muốn học Đạo trước hết phải nương vào chữ nghĩa để tìm hiểu lý Đạo, nhưng khi đến chỗ tột cùng thì phải lìa chữ nghĩa mà trở về nơi tâm, vì Đạo chính là ở trong tâm, nên hiểu tâm là hiểu được ý thâm sâu vượt ngoài văn tự. Điều đó được kể như là đạt Lý. Khi đạt lý rồi thì thấy Đạo hiển lộ khắp pháp giới, và tu “hiện cùng khắp”, tức là thực hành Đạo vào tất cả những gì đến trước mắt hàng ngày, cũng có nghĩa là ứng dụng Lý vào Sự. Chữ nghĩa và tu phối hợp với nhau là Lý Sự viên thông. Bài thơ của Tuyết Đậu, theo Đạo Nguyên, đã bao hàm cả hai vấn đề này.

 

Một, bẩy, ba, năm

Chân lý tìm cầu không thể nắm bắt được

Trong trời đêm

Trăng sáng chiếu khắp trên đại dương

Trân bảo hắc long hiện trên từng ngọn sóng

Tìm trăng ở đâu

Ở ngay đây, trong ngọn sóng này

Và ngọn sóng tới.


 

Chân lý, tức Đạo, không thể lấy ngôn ngữ mà nắm bắt được, nhưng hiển lộ khắp mọi nơi, ngay bây giờ và ở đây. Thường thường người ta hay cầu chứng đắc trong sự tu, muốn thành Phật, được trí tuệ v.v... Nhưng theo Đạo Nguyên, tu không phải để chứng đắc thành Phật, mà là thể hiện tánh Phật ngay trong các hoạt động thường ngày. Thế nào là Phật? Tổ Đạt Ma đã định nghĩa như sau: “Phật có nghĩa là Giác. Kinh nói: “Lìa được mọi tướng ấy là chư Phật.” Lìa mọi tướng là không thấy tướng mình, tướng người là thật, nên làm mọi việc trong tâm vô trụ, không rỗng, không bị cái Ngã giả tạo chi phối. 


Điều đó không phải là dễ dàng. Con người sống với thân ngũ uẩn nên thường nhận ngũ uẩn là thật, rất khó lìa ra được. Nhưng khi phải đối trước vấn đề sinh tử, thì mới thấy thân ngũ uẩn đó thật mong manh, như bóng chớp nay còn mai mất, lúc đó tự hỏi con người thực sự của mình là gì, và ở đâu? Trong bài kệ trích dẫn của ngài Đạo Nguyên cũng nói đến điều này qua câu:


“Hai phần ba cuộc đời đã đi qua

Mà vẫn chưa tu để biết mình là ai..”


Như vậy, tu là để trở về với con người thực sự của mình, con người vẫn thường trú nơi thân ngũ uẩn nhưng không theo duyên hợp ngũ uẩn mà sanh diệt, cũng không dính nhiễm vào những hệ lụy trần ai của ngũ uẩn.


Câu hỏi của Qui Sơn rằng khi ngài trăm tuổi sẽ trở thành một con trâu dưới núi bên hông trái có đề chữ “Qui Sơn Tăng Linh Hựu”, và lúc ấy gọi ngài là trâu hay là Qui Sơn, phải gọi như thế nào mới đúng, đã cho chúng ta phải suy ngẫm về vấn đề này, và đó cũng là vấn đề căn bản: thế nào là thực tướng của chúng ta? 

 


Thấy được thực tướng của mình là giác ngộ. Đạo Nguyên nói: “Cho đại chúng ăn một hạt cơm của Lô Lăng, vị phạn đầu ấy là Qui Sơn. Ăn hạt cơm ấy có thể trở thành con trâu. Đôi khi con trâu ăn mất Qui Sơn, đôi khi Qui Sơn lại chăn trâu.”


Hạt cơm của Lô Lăng là hạt cơm của sự giác ngộ, người phạn đầu cho đại chúng ăn hạt cơm giác ngộ tất phải là một vị tăng đã đạt đạo như Qui Sơn. Ăn hạt cơm giác ngộ thì giống như con trâu của Qui Sơn, tuy có thân phàm nhưng mang dấu ấn của tánh giác, và trong sự tu để tự độ thì đôi khi thân phàm lấn lướt hơn như con trâu ăn mất Qui Sơn, đôi khi tánh giác lại chế ngự thân phàm, như Qui Sơn chăn trâu vậy. Nhưng khi đã “thấy trâu và Qui Sơn là một”, tức là đã lìa được cả tướng trâu lẫn tướng Qui Sơn, thấy được thực tướng tức là vô tướng. Khi ở trong vô tướng rồi thì không bị còn bị chao đảo, sợ hãi với những gì đến và đi trước mắt, làm mọi việc cho lợi ích chung với một tâm rỗng lặng, bình đẳng, vững chãi. Đó cũng là cái quả thực tiễn mà sự tu mang lại. 

 


Ngọc Bảo

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Chim Hạc