TÂM KINH BÌNH GIẢI
Thiền sư Seung Sahn
Bồ Tát Quán Tự Tại khi dùng trí Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu soi chiếu ngũ uẩn thấy đều là không, bèn vượt qua hết mọi khổ ách.
Này
Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc; sắc chính thực là
không, không chính thực là sắc; thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Này
Xá Lợi Phất, tướng Không trong các pháp không sanh không diệt, không nhơ không
sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong Không không có sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp.
Không
có nhãn giới cho đến không có ý thức giới, không có vô minh nên không có dứt vô
minh, không có lão tử nên không có dứt lão tử. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không
có tri thức, nên không có chứng đắc. Vì không có chứng đắc, nên Bồ Tát nương
theo trí Bát Nhã Ba La Mật, tâm không có
chướng ngại. Vì không có chướng ngại nên không có sợ hãi, xa rời mọi vọng tưởng
điên đảo, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Chư
Phật trong ba đời đều y theo Trí Bát Nhã Ba La Mật Đa mà đạt được Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Vậy phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được tất cả khổ đau, chân thực không giả dối. Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa được nói như sau:
Gate Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha.
Gate Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha
Gate
Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha.
Bát Nhã Tâm Kinh chỉ có 270 chữ Hán, nhưng bao
hàm trong đó tất cả giáo lý của Phật Giáo Đại Thừa. Trong kinh này cô đọng tinh
tuý của kinh Kim Cương, kinh Hoa Nghiêm và kinh Liên Hoa, chứa đựng nghĩa lý của
tất cả kinh Phật. Kinh Bát Nhã được đọc tụng trong mọi chùa chiền và thiền viện
Đại Thừa. Trong những chùa ở Đại Hàn và các trung tâm thiền viện ở Âu Mỹ, kinh
này được đọc tụng ít nhất hai lần một ngày, và trong thời kỳ chuyên tu lại càng
được đọc nhiều hơn nữa. Đôi khi nếu bạn thấy tâm thần bất minh, và ngồi thiền
không giúp gì được mấy, hãy đọc kinh này, bạn sẽ thấy tâm trí sáng tỏ trở lại.
Maha có nghĩa là lớn vĩ đại. Bát Nhã là trí tuệ.
Ba La Mật Đa có nghĩa là vượt qua, hay là đạt sự toàn hảo. Trong chữ Hán
"Tâm Kinh" có nghĩa là "con đường tâm". Như vậy kinh này có
nghĩa là "Con đường để đạt đến trí tuệ toàn hảo".
Chữ Maha trong tựa đề của kinh này chỉ đến một
điều gì vô cùng lớn rộng. Trong thời gian và không gian này có gì có thể thực sự
nói là vô lượng vô biên? Có người nói là đất là vật lớn nhất. Thế nhưng khi chúng
ta nghĩ lại, thì đại dương dường như là lớn nhất, vì diện tích đại dương nhiều
hơn là đất liền. Hay bầu trời là lớn nhất? Có thể không gian là cái lớn nhất mà
chúng ta có thể biết được. Có lẽ bầu trời và không gian là lớn nhất! Vũ trụ này thật là vô biên vô hạn trong thời
gian và không gian, và còn dung chứa trong đó những thế giới vô hạn - có lẽ đó
là cái lớn nhất chăng? Chắc tất cả mọi người đều nghĩ như vậy. Nhưng một vị thầy
nổi tiếng đã nói rằng,"Toàn vũ trụ này bao trùm lên người tôi, nhưng tâm tôi
có thể bao trùm cả vũ trụ". Đây là một điểm rất quan trọng. Vũ trụ bao
quanh và trùm lên thế giới ta sống với tất cả mọi thứ trong đó, nên thực sự rất là lớn. Nhưng ngay giây phút ta
nghĩ đến vũ trụ - "vũ trụ" trong đầu - là ta đã bao trùm hết cả vũ trụ
trong tâm ta rồi. Như thế tâm ta còn lớn hơn cả thời gian vô hạn và không gian
vô hạn của vũ trụ này. Thật kỳ diệu thay! Tâm Kinh đã chỉ cho ta điều lớn nhất
ta có: đó chính là tâm - và cũng chỉ cho ta làm sao khám phá và tu luyện để ứng
dụng cái lớn nhất ấy, bởi thế bài kinh ngắn gọn này được gọi là Maha.
Chiếu
kiến ngũ uẩn đều không độ cho mọi chúng sanh qua hết mọi khổ ách.
Thế giới này nhìn đâu cũng thấy tràn ngập các
nỗi khổ. Mọi chúng sanh đều có những đau khổ phiền não. Nhưng sự đau khổ đến từ
đâu? Có những người thương yêu người khác một cách tuyệt vọng, có những người
buông theo dục vọng kiếm tìm những sở hữu vật chất. Có người tham vọng muốn trở
thành một nhân vật nào đó để làm cho cuộc đời toàn hảo, hay được người khác biết
đến và công nhận. Nhưng dù chúng ta có phấn đấu thế nào để được những điều đó,
dù chúng ta có đạt được đi nữa, ta cũng không thể giữ chúng được. Và đó là nguyên nhân tạo nên sự đau khổ. Tuy
nhiên khởi thủy sự đau khổ không phải là sẵn có. Tất cả đều đến từ tâm của chúng
ta, như một ảo ảnh hiện lên từ con đường nóng bỏng, trông có vẻ như thực. Nếu
ta đau khổ về một điều gì đó, rồi ta chết đi, sự đau khổ đó cũng biến đi.
Khi ta nhận ra điều này - rằng đau khổ
chỉ là sản phẩm do tâm dựng lên, và không có sự hiện hữu độc lập - ta sẽ không
còn thấy đau khổ phiền não.
Thế thì, tâm là cái gì mà lớn như vậy? Nếu ta
suy nghĩ, ta sẽ không thấy tâm ở đâu cả. Nếu ta dừng sự suy nghĩ - có nghĩa là
dừng mọi vướng mắc vào những tư tưởng khởi lên - bản tâm thực sự của ta sẽ hiển
hiện cùng khắp. Đức Phật trước tiên đã dạy cho ta rằng cái gọi là tâm hay là
"tôi" đó chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn, tức là sắc, thọ tưởng, hành,
thức. Ngũ uẩn này biến đổi không ngừng: chúng chỉ là những khối năng lượng của tinh
thần. Vì con người luôn luôn bám víu vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nên khi
những biến đổi tất yếu xẩy ra, chúng ta thấy đau khổ phiền não. Chúng ta không
bao giờ thoát ra được thế giới đau khổ phiền não này. Đó là bởi vì chúng ta tin
rằng ngũ uẩn là có thật, và chúng là cái "tôi" thật sự của ta. Đây là
trọng điểm mà giáo lý nguyên thủy của đạo Phật đã giảng dạy.
Tuy nhiên, câu đầu tiên của Tâm Kinh đã chỉ ra
rằng ngũ uẩn vốn bản chất là không. Theo như thế, đau khổ nằm ở đâu? Cái gì có
thể đau khổ? Ví dụ, đây là một ly nước
cam. Nếu ta có "ly", ta có thể chứa được nước cam ở đó. Nhưng nếu ly đó
vỡ, làm sao nước cam còn chứa ở đó được? Ta sẽ không giữ nước cam ở đó được, phải
không? Đau khổ cũng là như thế. Đau khổ trụ tại nơi đâu? Nếu ta bám víu vào ngũ
uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đau khổ sẽ có nơi để trụ vào. Nhưng Tâm Kinh
chỉ cho ta thấy rằng ngũ uẩn vốn là không. Tâm vốn là hoàn toàn rỗng không - làm
sao đau khổ có thể trụ vào đâu được? Vì vậy, giáo lý về tánh không này là cực kỳ
quan trọng để ta thấu đạt. Khi chúng ta tu tập hành trì kinh Bát Nhã, ta sẽ chứng
thấy được rằng ngũ uẩn vốn tất cả đều là không. Đạt được sự thấy biết đó sẽ độ
cho chúng ta qua khỏi mọi đau khổ phiền não. Chỉ hiểu qua lời nói không chưa đủ
- ta còn phải tu tập để chứng được điều đó.
Sắc
chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc; sắc chính thực là không, không
chính thực là sắc.
Tâm Kinh dạy rằng "sắc chính là không, không chính là sắc". Nhiều người không hiểu ý nghĩa của điều đó - kể cả một số hành giả đã tu tập lâu năm. Nhưng có một cách rất dễ dàng để nhìn thấy điều đó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ví dụ, đây là một cái ghế gỗ mầu nâu, trông nặng nề vững chắc. Cái ghế đó dường như sẽ tồn tại lâu dài lắm. Bạn ngồi trên ghế, và cái ghế chịu đựng sức nặng của bạn. Bạn có thể để đồ vật lên cái ghế đó. Nhưng rồi bạn châm lửa đốt cái ghế rồi bỏ đi. Khi bạn trở lại, cái ghế không còn đó nữa! Đồ vật trước đây trông thật là vững chắc mạnh mẽ và có thực đó bây giờ chỉ là một đống tro tàn đang bị gió thổi tung bay khắp nơi. Ví dụ này chỉ cho thấy tánh không của cái ghế: đó không phải là một vật thể thường tồn, thường trụ, mà luôn luôn thay đổi, và không có sự hiện hữu độc lập. Qua một thời gian dài hay ngắn, cái ghế sẽ dần dần thay đổi và trở thành một vật gì khác với lúc ban đầu. Như vậy cái ghế này bản chất hoàn toàn là không. Nhưng mặc dù có tánh là không, nhưng tánh không ấy thể hiện trong sắc tướng: bạn có thể ngồi trên ghế, và ghế vẫn giữ được thân hình của bạn trên đó: "sắc chính là không, không chính là sắc".
Nhưng tại sao ta cần phải hiểu biết điều này? Lý do là vì rất nhiều người trong chúng ta đều vướng mắc vào danh và sắc, và sự vướng mắc vào danh và sắc này là nguyên nhân của hầu hết những đau khổ phiền não. Nếu ta muốn chữa cho con người ra khỏi sự vướng mắc này, ta phải dùng đến liều thuốc danh-và-sắc. Ta phải bắt đầu bằng cách chỉ ra rằng danh và sắc là không thật và không thường tồn: chúng luôn luôn biến đổi, biến đổi, và biến đổi. Nếu bạn giầu có, bạn phải thấy rằng những tài sản bạn đang ham muốn đó đều bản chất là không. Nếu bạn ham danh và muốn mọi người công nhận mình, bạn phải thấy rằng những điều bạn đang phấn đấu và khổ nhọc để đạt được đó bản chất là không. Hầu hết mọi người đều trân quý thân của mình: họ bỏ ra rất nhiều tiền để làm cho thân đó được mạnh mẽ đẹp đẽ. Nhưng một ngày nào đó, chẳng chóng thì chầy, bạn sẽ chết, và thân này không còn nữa. Bạn không thể đem thân này theo bạn được, dù bạn có trân quý nó đến thế nào chăng nữa. Bạn không thể đem danh vọng theo được. Bạn không thể đem tiền bạc theo được. Bạn không thể đem luyến ái tính dục theo được. Bạn không thể đem theo bất cứ cái gì được!
Thời nay, có nhiều người đang vướng mắc rất
nhiều vào những điều này. Họ trân quý danh vọng và những hình sắc hư ảo trống rỗng
trên hầu hết bất cứ cái gì khác, tự hại mình và hại người chỉ để bảo vệ chúng.
Họ muốn có tiền tài, danh vọng, hay một quan hệ tốt đẹp. Họ phấn đấu tuyệt vọng
để có được địa vị cao sang. Người ta luôn luôn đem tâm mình ra đầy đọa và rồi đau khổ chỉ vì muốn đạt được, và
giữ lại những điều trống rỗng, vô thường ấy. Thời nay có nhiều người vướng mắc
trong luyến ái tính dục. Nhưng không có gì cần phải như vậy. Tất cả mọi sắc tướng
đều là không, vì vậy nghĩ rằng bạn có thể đạt được hay giữ được một điều gì đó trên
căn bản chỉ là một ảo tưởng. Câu kinh này dạy cho chúng ta điều đó.
Không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm.
Bát Nhã Tâm Kinh là một bản kinh đặc biệt đã
biết cách dùng ngôn từ thiện xảo để diễn tả bản tánh tự nhiên của chúng ta. Đó
là dùng thể phủ định "không" nhiều lần. Khi ta đạt tới chân không, không
còn có lời nào, chữ nào để nói nữa. Mở miệng ra đã là một sai lầm lớn lao rồi.
Như vậy chữ nghĩa ngôn từ không thể nào diễn tả được bản tánh tự nhiên của ta. Nhưng
để giáo hóa những người còn vướng trong ngôn từ huyễn hóa, đôi khi phải dùng ngôn
từ làm phương tiện. Bát Nhã Tâm Kinh nhận ra cả hai phương diện này, do vậy đã
diễn tả bản tánh tự nhiên của ta bằng cách diễn tả hoàn toàn những gì không phải
là bản tánh tự nhiên. Ta không thể nói đó là cái gì, nhưng có thể gợi ra cho thấy
những gì không giống như bản tánh tự nhiên. "Đó không phải là thế này hay
thế nọ, thế nọ hay thế kia. Đó không giống như thế kia, hay thế này, thế nọ. Hiểu
không?" Ha ha ha. Đó là một kỹ thuật rất hay. Bát Nhã Tâm Kinh chỉ nói
"không" bởi vì đó có lẽ là cách tốt nhất để dùng chữ nghĩa ngôn từ biện
giải.
Câu kinh này chỉ ra rằng, trong bản tánh tự
nhiên của chúng ta, không có gì sanh hay diệt. Cũng không có gì dơ hay sạch, bởi
vì tất cả chỉ là khái niệm dựng lên bởi cái tâm suy nghĩ. Và trong
bản tánh tự nhiên cũng không có gì tăng hay giảm. Bản tánh của ta là hoàn toàn
không lặng. Đó là bản chất chung nhất hợp thành tất cả những gì khác trên thế
giới này. Thế thì, làm sao nó có thể sanh hay diệt, dơ hay sạch được? Quan trọng
hơn là, vì bản chất của chúng ta cũng là bản chất của vũ trụ, làm sao nó có thể
tăng hay giảm được? Vì vô lượng vô biên trong thời gian và không gian, nó không
có một đặc điểm nào giống với những thứ mà ta có thể dùng chữ nghĩa ngôn từ để
diễn tả được.
Tất cả các pháp đều là không - không có tri thức, nên không có chứng đắc. Cứu cánh Niết Bàn.
Bát Nhã Tâm Kinh nói: "Tất cả các pháp đều là không". Nhưng tất cả các pháp đã vốn là không trước khi ta mở miệng nói điều đó. Danh và sắc đã vốn là không. Làm sao có thể nói tới pháp nào và nói là không đắc được chúng? Đó là điều sai lầm lớn lao! Trong sự thực chứng tánh không, không còn có chữ nghĩa ngôn từ nào, nên cũng không có pháp nào để nói. Khi mở miệng nói "Tất cả các pháp đều là không" thì đó không còn là không nữa. Vì vậy phải cẩn thận. Điểm đáng nói ở đây là nếu ta chỉ hiểu qua chữ nghĩa ngôn từ, chỉ ở trên bình diện của tri thức, thì kinh này và các kinh khác đều không giúp gì cho ta trong đời sống. Điều cần thiết là phải có sự chứng nghiệm những lời kinh mới có thể thấu hiểu được.
Vì vậy khi nói rằng tất cả các pháp đều là không,
là ta cũng nói đến không có tri thức, và không có gì để chứng đắc. Cái không ở đây
là sự thực tuyệt đối. Đã là không, thì còn có chỗ nào để đắc? Những lời nói
trong kinh Bát Nhã chỉ là những ngôn từ tuyệt diệu. Nhưng dù những ngôn từ có
hay ho và tuyệt diệu đến thế nào, nếu ta chỉ hiểu chúng qua khái niệm, thì đó cũng
không giúp gì cho cuộc đời ta được. Do đó, ta lại phải tu tập để chứng đắc. Ta
phải chứng đắc cái không có chỗ đắc (vô sở đắc). Tất cả đều đã là chân lý Như
Thị. Ta vốn đã đầy đủ sẵn có. Nhưng hãy cẩn thận! Hiểu qua chữ nghĩa ngôn từ là một chuyện, mà chứng
đắc lại là chuyện khác.
Bát Nhã Tâm Kinh mở đầu với sự chứng nghiệm tánh
Không của Phật giáo nguyên thủy và đi thêm bước nữa. Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo
phản chiếu một con đường trong đó có sự nhận thức cái khổ, rồi đưa đến sự diệt
trừ cái khổ và cảnh giới vô sanh vô diệt. Đó là Niết Bàn. Không có sự đối đãi của
đến hay đi, cao hay thấp, tốt hay xấu, sanh hay tử. Làm sao dứt được điều gì vốn
không hiện hữu? Đau khổ vốn là không, làm sao có thể có nguồn gốc mà diệt trừ
được? Đó là điều Bát Nhã Tâm Kinh nói đến trong câu "Không có khổ, tập, diệt,
đạo". Câu đó hoàn toàn đi ngược lại nghĩa lý của Tứ Diệu Đế rằng có sự khổ,
nguyên nhân sự khổ, sự diệt trừ khổ và con đường tu để giải thoát khổ đau. Như
vậy, giáo lý Đại Thừa đã đi thêm một bước khỏi giáo lý nguyên thủy Phật giáo. Nếu
ta ngừng lại ở chỗ không lặng hoàn toàn, ta chỉ có thể đạt được Niết Bàn. Nhưng quan điểm của Phật giáo Đại Thừa là tiến
thêm bước nữa.
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác - A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttara Samyak Sambodhi) là một câu tiếng Phạn có nghĩa là "vô thượng chánh đẳng chánh giác". Đó cũng là một cách khác để nói đến "chân lý". Khi ta nhìn, khi ta nghe, khi ta ngửi, khi ta nếm, khi ta xúc chạm, khi ta nghĩ - tất cả, là như-thế-đó, là chân lý Như Thị. Trước đó, ở thời điểm của Niết Bàn, không có tri thức, không có chứng đắc. Như thế bồ tát nương vào trí Bát Nhã Ba La Mật Đa mà đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Nhưng rồi ba chữ sau xuất hiện: A nậu đala tam miệu tam bồ đề. Trước nói là không có chứng đắc; sau lại nói là chư Phật đắc A nậu đala tam miệu tam bồ đề. Đó là ý nghĩa gì?
Nếu ta chỉ đạt tới sự không lặng toàn diện, đó
chỉ là trạng thái Niết Bàn. Đó là sự chứng nghiệm sự tịch tĩnh hoàn toàn và
niềm hoan lạc: không có chủ thể hay đối tượng, tốt hay xấu, không đến không đi, không
sanh không tử. Không có chỗ nào để đắc được. Nhưng Đại Thừa có nghĩa rằng sự tu
tập còn vượt qua cả điểm này để đến sự chứng đắc cái vô sở đắc. Ta phải tìm cách ứng dụng Niết Bàn vào đời sống.
Điều đó được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu chứng được cái vô sở đắc,
tức là đã đạt tới chân lý. Tâm ta sẽ không rỗng và trong sáng như hư không. Điều
đó có nghĩa là tâm ta trong sáng như tấm gương: nếu có ngọn núi phản chiếu
trong gương, thì đó chỉ là ngọn núi; nếu có nước phản chiếu vào, thì đó chỉ là
nước, mầu đỏ thì thấy mầu đỏ, mầu trắng thì thấy mầu trắng. Bầu trời mầu xanh.
Cây cối mầu xanh lá cây. Một con chó đang sủa "gâu gâu"! Đường nếm thì
ngọt. Tất cả những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và nghĩ đều là sự thật
như thế. Niết Bàn có nghĩa là đạt tới chân không, tức là cái vô sở đắc. A nậu đala
tam miệu tam bồ đề có nghĩa là dùng kinh nghiệm chứng ngộ tánh Không để đạt đến
chân lý. Với một tâm không rỗng, chiếu kiến thế giới này đúng như thế (đại viên
cảnh trí). Đó là Phật Giáo Đại Thừa và Đại Bồ Tát Đạo.
Gate gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
Như vậy cũng còn thêm một bước nữa. Nếu ta đã đạt
tới cái không, và rồi đạt được chân lý, làm sao để ứng dụng chân lý này độ cho
các chúng sanh khác? Chư Phật đều đạt được A nậu đala tam miệu tam bồ đề, hay là
Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Có nghĩa là họ đã đạt được chân lý. Họ có thể
thấy rõ ràng bầu trời mầu xanh da trời, cây lá mầu xanh lá cây. Ở cuối bài kinh
nói đến một bài đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú:
Gate gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha. Bài chú này có nghĩa là "Vượt
qua vượt qua, vượt qua bờ bên kia, giác ngộ giải thoát". Như vậy bài chú ở
cuối bài kinh này có nghĩa là chỉ cần hành động. Từ đầu cho tới chỗ đó, tất cả
chỉ là chữ nghĩa ngôn từ về sự đạt tới cái không và chân lý. Tất cả là sự diễn
tả rất tuyệt vời. Nhưng bài chú này có nghĩa là ta phải hành động. Cần phải có
hành động nào đó nếu ta muốn cứu độ thế giới này. Đối với một vị bồ tát, đó chỉ
là hành bồ tát đạo. Khi đạt tới vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta phải ứng dụng
được sự chứng ngộ này trong cuộc đời. Đó gọi là đời sống của giây phút hiện tiền.
Từng giây từng phút, hãy nhận thấy những đau khổ trong đời sống này và cứu độ tất
cả chúng sanh. Đó là điểm rất quan trọng.
Đạt được chân lý chưa phải là đủ. Khi có ai khát
nước, hãy đưa nước cho người ấy uống. Khi có ai đói, hãy đưa thức ăn cho người ấy
ăn. Khi có người đau khổ đến trước mặt, hãy giúp người đó, không cần suy nghĩ
hay xét nét gì cả. Phần đầu của bài kinh không nói "hãy làm đi!", chỉ
có những lời hay đẹp về chứng đắc và vô sở đắc. Nhưng nếu bạn chứng đắc được điều
gì, bạn phải ứng dụng điều ấy trong hành động. Đó là ý nghĩa đàng sau câu chú
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha. Từng bước một, chúng ta đạt tới
chỗ có thể sống trong tình thương với tất cả mọi người, áp dụng chân lý trong sự
hành xử đối với tha nhân, một cách tự
nhiên, từng giây từng phút một. Đó là tất cả những gì Bát Nhã Tâm Kinh muốn nói
đến.
Từng giây từng phút, khi đang làm điều gì, hãy chỉ hành động.
Thiền sư Seung Sahn
Ngọc Bảo trích dịch