- - Lời mở đầu
- - Đông và Tây
- - Mùi hương lan
- - Coi bói đầu xuân
- - Ánh sáng cuối đường
- - Vọng tưởng mùa thu
- - Bay theo gió nghiệp
- - Trở về mái nhà xưa
- - Căn nhà có chủ
- - Tiếng vọng từ Không
- - Cóc và Thiền
- - Vũ điệu đêm hè
- - Vài suy nghĩ về Giới Hạnh
- - Có phải là Bồ Tát
- - Mưa không ướt áo
- - Bài học cuối cùng
- - Lão và Phật
- - Ghi chút nỗi niềm - Mật Nghiêm
- - Đôi dòng lưu niệm ... - Phùng Quân
Căn nhà có chủ
Los Angeles, thành phố của những thiên thần có đôi cánh trải rộng mênh mông, bao trùm những thành phố nằm chen chúc, san sát với nhau, một thế giới sinh động đầy mầu sắc của những văn hóa chủng tộc khác nhau. Nhưng trong chốn náo nhiệt đó, lại có một thành phố khác được dựng lên trên một vùng đồi núi bát ngát, và ở ngay phía ngoài là một vườn hồng đủ mầu rực rỡ nổi bật lên mầu cỏ non xanh ngắt chung quanh. Một thành phố không một bóng người, lúc nào cũng vắng lặng, im lìm ngay cả trong những giờ cao điểm bận rộn nhất trong ngày. Thành phố ấy được đặt tên là Đồi Hồng, là nơi an nghỉ của hàng trăm ngàn người đã nằm xuống, đã rũ mộng trần để đi vào một thế giới khác.
Ricardo dọn về căn nhà ở cạnh Đồi Hồng
đã mấy năm nay. Căn nhà đó được đem bán đấu giá và Ricardo đã may
mắn mua được với một giá hời trên thị trường. Nói là may mắn cũng đúng phần nào,
nhưng đối với Ricardo , căn nhà đó có lẽ là kết quả của những suy
tính , cần kiệm mà anh đã bỏ ra từ bấy lâu nay nhiều hơn. Đức tính cần kiệm ấy hẳn là anh đã
chịu ảnh hưởng từ người mẹ, một người mẹ hiền đúng nghĩa, lúc nào
cũng hi sinh, chăm lo săn sóc cho đàn con nhỏ dại. Như phần lớn những gia đình gốc Mễ Tây
Cơ khác, gia đình anh cũng rất đông anh em, tất cả đều sàn sàn cách
nhau một hai tuổi, nên lúc nào cũng ồn ào như chợ vỡ. Nhưng gia đình anh có điểm đặc biệt hơn
phần lớn những gia đình bạn bè của anh, là tràn đầy tình thương, tình
thương giữa cha mẹ anh, tình thương của cha mẹ đối với các con và một nguyên
tắc đạo đức căn bản theo Ki tô giáo, một nề nếp “giấy rách phải
giữ lấy lề” mà cha mẹ anh đã cố dạy cho các con phải tuân theo. Chỉ với một đầu lương duy nhất của cha,
mẹ anh đã vén khéo để lúc nào cũng lo cho gia đình có bữa cơm đầy
đủ, các con ăn mặc tươm tất, chỉnh tề khi ra ngoài. Có lẽ cũng nhờ gia phong ấy, mà những
thói hư, tật xấu cũng như những cám dỗ đầy rẫy trong trường học đã
không ảnh hưởng được lắm đối với Ricardo và các anh em trong
nhà.
Căn
nhà Ricardo mua được là một căn condo khá lớn, chỉ có một phòng nhưng
phòng khách, phòng ăn rộng rãi, tầng dưới là chỗ để xe, tầng trên
là chỗ ở, đi lên bằng cầu thang ở ngoài. Vì ở tầng trên nên thoáng mát, và có cảm giác an toàn
hơn. Người chủ trước là một phụ
nữ đứng tuổi ở một mình, không ai rõ chuyện gì đã xẩy đến cho bà
ta, chỉ biết là căn nhà đã bị đem bán đấu giá. Khi Ricardo lấy được căn
nhà, anh đã phải bỏ ra mấy tuần sửa sang lại cho khang trang, nhất là
dưới thảm trong phòng ngủû có một vết ố thật lớn, không hiểu là vết gì mà không thể nào
làm sạch đi được.
Mua nhà ở cạnh nghĩa địa, đối với người Á đông có lẽ là điều tối kỵ, nhưng với Ricardo thì đây chỉ là một căn nhà không hơn không kém, hơn thế nữa nó là căn nhà đầu tiên mà anh làm chủ, là một niềm tự hào, một biểu tượng độc lập mà ai cũng muốn có. Vả lại, ở giữa thành phố Thiên Thần đầy sôi động này, mấy khi có được một chỗ ở yên tịnh, giữa thiên nhiên xanh mầu với khu rừng phía xa và những ngọn đồi thoai thoải trải dài. Sóc, thỏ, mèo, chồn hôi và đôi khi chó sói là những khách thường xuyên đến thăm viếng, chúng là những láng giềng rất vô tư và hồn nhiên, không hề biết đến những tâm tình lắt léo của con người. Lúc đầu, khi mới dọn đến, thỉnh thoảng có tiếng động như có người gõ cửa ở ngoài, khi nhìn ra thì chẳng thấy ai, khiến Ricardo cũng hơi dè dặt, nhưng sau đó anh tự nhủ thầm, có lẽ đó là những người khách hoang dã đến viếng thăm đó thôi. Trong bóng đêm dầy đặc và im vắng tận cùng, một tiếng động nhỏ cũng đủ làm cho người ta giật mình. Nhưng lâu dần, mọi sự rồi cũng quen đi và trở thành bình thường, không đáng để ý tới.
Mấy
tháng gần đây, Ricardo đổi công việc và tại chỗ làm mới này, anh
có cơ hội tiếp cận thường trực với những người khác chủng tộc và
văn hóa. Mùa hè đến, nhân có ngày nghỉ, Ricardo ngẫu hứng rủ một người bạn lái xe dọc bờ biển không
chủ đích, thích đâu thì ghé xuống
chơi rồi lại tiếp tục đi. Bờ biển
California có những nơi núi chạy uốn khúc theo bờ biển, trông cảnh
trí thật là ngoạn mục, đây đó
những tảng đá lởm chởm nhô lên trên biển sóng dạt dào, gợi một
vẻ đẹp hoang vu. Sau khi thăm lâu
đài Hearst, Ricardo và bạn tiếp tục hướng về phía Bắc, nhưng đi được
một quãng thì xe bắt đầu trục trặc và khi đến Salinas thì trời cũng
đã khuya. Thấy có một khách sạn
bên đường, hai người dừng lại mướn phòng nghỉ đêm.
Trên
con đường cô quạnh này, lại có một khách sạn khá lớn, có lẽ là
để cho những người lỡ độ đường như Ricardo nghỉ lại. Một ngày dài lang thang cũng đã thấm
mệt, hai người vào tới phòng rồi là lên giường ngủ ngay, không để
ý gì đến căn phòng trọ. Nhưng không được bao lâu, bỗng nhiên có
những tiếng động lạ nổi lên, thoạt tiên chỉ nhè nhẹ, sau càng ngày
càng lớn. Tiếng động lớn nhất là
ở trong phòng tắm , như có người ném đồ dộng vào tường. Rồi trong
những âm thanh chát chúa, nặng nề ấy, bên tai hai người bỗng có
những tiếng mơ hồ như thì thầm, đượm nhiều nét giận dữ.
“Mày có nghe gì không?” Ricardo hỏi.
“Tao nghe như có tiếng người nói, phải không? Mình thử đi ra ngoài xem có ai không.”
Cả hai cùng rủ nhau mở cửa nhìn ra ngoài, hành lang im vắng không một bóng người, cửa sổ cũng trống không, nhưng tiếng động bây giờ dường như lại chuyển về hướng cửa sổ. Ricardo bỗng nhận thấy những tiếng động này có vẻ như không do một va chạm vật chất nào gây nên, mà do một lực siêu nhiên, siêu hình nào đó đánh động thẳng vào tâm thức hai người. Vốn là người thực tế từ trước tới nay, Ricardo ít khi nào tin vào những chuyện hoang đường, nhưng trước hiện tượng kỳ quái trước mắt này, anh không khỏi rùng mình sợ hãi, tinh thần tán loạn. Dù ít khi đi nhà thờ, anh bất giác đọc to bài kinh cầu nguyện Chúa để trấn an. Nhưng lạ thay, càng đọc kinh, tiếng động càng có vẻ to hơn, làm như mãnh lực ma quái kia càng thêm nổi giận. Người bạn gắt lên:
“Thôi im đi, đừng đọc kinh nữa!”
“Thật tao chịu hết nổi rồi, nếu suốt đêm cứ như thế này chắc chết quá. Thôi mình đi ra xin đổi phòng đi!”
Người
quản lý khách sạn, khi nghe họ muốn đổi phòng, không tỏ vẻ gì là
ngạc nhiên. Đêm đó, sau khi đã đổi phòng, hai người đã ngủ thiếp đi
được một chút, mặc dù căn phòng này cũng có những tiếng động,
nhưng không quá ồn ào như phòng trước.
Sáng ra, sau khi trả phòng, hai người ra tới ngoài, thấy bãi đậu xe đã vắng tanh. Dường như những người khách trọ lác đác đến hôm trước đã vội vàng ra đi thật sớm khỏi nơi này.
Những
sự việc xẩy ra trong cuộc đời con người thường đến liên tiếp như một
chuỗi, đôi khi có những tai họa dồn dập như người Đông phương đã có
câu :”Họa vô đơn chí”. Những gì đến
với Ricardo không hẳn là tai họa, nhưng là cả một chuỗi ngày lao
tâm, lao lực, đầy những chuyện lo âu, phiền não. Trở về từ chuyến
đi xui xẻo, Ricardo nghe tin căn bệnh ung thư của mẹ anh đã tái phát,
và sức khỏe bà lại càng suy yếu hơn với những cơn đau thấu xương của
bệnh thống phong. Thương cha mẹ đơn
chiếc, lại ở xa, Ricardo về Corona
ở tạm với cha mẹ một thời gian để tiện chăm sóc cho mẹ hơn, cuối tuần mới về nhà giải quyết những
việc cần thiết.
Một buổi chiều cuối tuần, Ricardo trở về căn nhà cạnh Đồi Hồng. Những ngày sống kề cận với người mẹ đau yếu đã là gánh nặng đè lên tâm hồn anh, khiến anh cảm thấy ngột ngạt, muốn thoát ra trở về nhà xả hơi một chút với đời sống tự do thoải mái như trước đây. Căn nhà lâu ngày vắng chủ có một vẻ gì hoang lạnh khó tả. Buổi chiều, người bạn đến chơi với Ricardo. Hoàng hôn xuống mau, không khí thẫm mầu mang một vẻ đìu hiu, buồn bã như tâm trạng của Ricardo đang u ám, âu sầu. Bỗng nhiên, hai người nghe như có tiếng kêu văng vẳng từ xa, thoảng nhẹ như cơn gió nhưng cũng xoáy vào tận tâm hồn, tiếng kêu như than khóc, như kêu gào thống khổ, như tiếng thất thanh trong nỗi kinh hoàng tận cùng của một người đang bị nguy hại đến tính mạng. Hai người bước ra cửa sổ, dõi mắt nhìn ra ngoài. Chẳng có gì ngoài một bầu trời tranh tối tranh sáng đang trùm lên vạn vật. Tiếng kêu càng lúc càng rõ, nghe vừa ảm đạm, vừa thống thiết như đang kêu cứu, khiến hai người rùng mình sởn ốc, vội vàng chạy ra ngoài, đi quanh trong khu để điều tra, nhưng không thấy gì, và cũng chẳng ai trong xóm có nghe, hay biết gì hơn. Trở về nhà, tiếng kêu lại tiếp tục nổi lên, khi ẩn khi hiện, và nổi bật lên khi ra gần cửa sổ. Bỗng Ricardo để ý thấy bên ngoài khung cửa sổ, từ đàng xa trong khuôn viên của một căn nhà, có một bóng người đứng sững bất động, một chiếc bóng cô đơn, không thấy rõ nét trong một bộ đồ trùm đầu kỳ lạ như của một thầy giòng tu kín. Bóng người đứng đó như lẫn vào trong cảnh sắc chiều hôm, khiến người bạn của Ricardo phải một lúc sau mới thấy được. Nhưng lạ thay, đúng lúc người bạn của Ricardo vừa thấy, thì bóng người cũng như từ từ chìm dần vào trong màn đêm buông xuống. Tiếng kêu thống khổ khi nẫy cũng đã im bặt tự bao giờ.
Kể
từ ngày đó, căn nhà Ricardo đang ở bắt đầu có những hiện tượng lạ,
những tiếng động trong đêm, tiếng cửa tự động mở. Có vẻ như căn nhà này không còn là
của riêng Ricardo nữa, mà có sự hiện diện của những lực vô hình
nào đó muốn đến chia xẻ không gian ở đây. Tâm thần Ricardo bắt
đầu nao núng, xao động, càng thêm bối rối với những nỗi buồn lo có sẵn. Có lúc Ricardo đã nghĩ đến chuyện bán
nhà, dọn về ở tạm với cha mẹ trong khi chờ đợi mua một căn nhà
khác như vài người đã khuyên, nhưng khi nghĩ đến việc đó, anh lại
thấy luyến tiếc căn nhà thoải
mái, rộng rãi này, không nỡ rời xa cho đành.
Cuộc
đời như một giòng sông, một lúc nào đó gặp gỡ những giòng nước
khác từ những thuợng nguồn xa xôi chảy về giao lưu, để rồi trong
trào lưu ấy có sự thay đổi, đôi
khi đi về một chiều hướng khác. Thời gian này, trong sở làm Ricardo được xếp ngồi gần cạnh Vân, người nữ đồng
nghiệp Việt Nam. Vân là người Việt Nam đầu tiên mà Ricardo có dịp
giao tiếp, nên cũng là dịp để anh
học hỏi, biết thêm nhiều về một nền văn hóa khác. Vân có một vẻ gì đặc biệt mà Ricardo
không định nghĩa được, anh thầm nghĩ, có lẽ đó là nét đặc biệt của người Đông phương chăng. Ngoài vẻ trầm lặng, dịu dàng tiêu biểu
của một phụ nữ Đông phương, Vân
dường như luôn luôn tỏa ra một nét bình thản, tự tại nào đó. Sau
này anh mới biết, đó là cũng là đặc điểm chung của những người
thực hành theo đạo Phật.
Ricardo
bắt đầu tâm sự nhiều hơn với Vân. Những ngày đối diện với sự đau
khổ của mẹ đã đem lại nhiều trăn trở, khúc mắc mà anh không thể
tìm lời giải đáp trong đạo giáo của mình. Tại sao mẹ anh, một người đàn bà hiền lành, đạo đức, suốt
đời lo cho chồng cho con, lại phải chịu đau khổ như vậy? Và sự đau khổ không chỉ giới hạn với
người lớn, mà còn cho cả trẻ con. Cách đây vài năm, đứa cháu gái
của anh mới mấy tuổi đầu đã phải chịu căn bệnh hoại huyết ngặt
ngèo, và khi vào thăm cháu trong Bệnh viện Nhi đồng, anh không khỏi
tự hỏi những đứa trẻ ngây thơ, trong trắng như thiên thần ấy tại sao
lại phải chịu hoàn cảnh như thế này? Nếu có một đấng Thượng Đế toàn năng định đoạt vận mệnh của
những con người trên trái đất này, tại sao những người đáng được
hưởng hạnh phúc lại không được huởng hạnh phúc?
Lần đầu tiên, qua Vân, anh đã được nghe về thuyết nghiệp quả của nhà Phật.
“Con người không chỉ hiện hữu trong một kiếp này, mà đã sống qua vô lượng số kiếp khác nhau. Không có một đấng Thượng Đế nào đã sinh ra và định đoạt vận mệnh của con người, mà tất cả mọi sự trên thế giới này là do nhân duyên hợp thành, và chính con người tự định đoạt lấy vận mệnh của mình. Qua những tác động của các việc làm, lời nói và ý nghĩ, con người tạo nên một nghiệp lực bao trùm thân phận mình và có ảnh hưởng đến những người khác và môi trường liên hệ. Nghiệp lực ấy bị chi phối bởi quy luật nhân quả rất chính xác và công bình. Vì thế những gì đến ngày hôm nay là kết quả của bao nhiêu nhân duyên đã kết hợp từ nhiều đời nhiều kiếp cho tới nay mà thôi.”
“Nhưng nếu không có một đấng Thượng đế hay thần linh nào, vậy thì Đức Phật là gì?”
“Đức Phật là đấng Đạo sư giác ngộ đã thấu rõ được chân lý của sự hiện hữu và làm chủ được sự hiện hữu đó của mình. Ngài không phải là thần linh, mà là vị thầy đã chỉ dạy lại cho chúng sanh con đường đi đến giác ngộ như ngài . Thượng đế là ý niệm về một sự toàn hảo, mà theo đạo Phật thì sự toàn hảo đó đã vốn có sẵn trong con người, chỉ vì những vọng tưởng mê mờ mà con người quên đi và không thấy được sự toàn hảo trong chính mình mà thôi. Vì vậy, đạo Phật không chủ trương tín ngưỡng mù quáng, mà đem con người trở về với chân tâm Phật tánh toàn hảo của mình, để được tự do, giải thoát chính mình khỏi những đau khổ, phiền não. “
Tuy
lần đầu tiên được nghe những ý niệm này của đạo Phật, mới mẻ và
khác biệt với những giáo điều mà
anh đã quen xưa nay, nhưng không hiểu sao, Ricardo cảm thấy thật hợp lý
và có thể chấp nhận được dễ dàng. Nói về những hiện tượng quái dị
mà anh đã gặp phải gần đây, Ricardo cũng khám phá ra nhiều điều mới lạ trong quan niệm đạo Phật về Tâm. “Tất cả những hiện tượng đến với con người tác động như thế nào
đều do Tâm mà ra cả. Nếu trong tâm đầy vọng tưởng, những cảm xúc khởi lên sẽ bị vọng
tưởng dẫn dắt thành một cơn thác lũ, đưa đến những phản ứng ngoài
tầm kiểm soát. Nhưng nếu trong tâm
trong sáng, không có những thiên kiến hay vọng tưởng, thì những cảm
xúc đối trước cảnh đó dù có khởi lên cũng không thể xâm lấn và
chi phối được con người. Một hiện
tượng lạ tự nó không làm hại được con người, mà chính những tưởng
tượng vẽ vời trong tâm mới thực sự có tác động.
Vọng tưởng là những
khởi động tự nhiên trong tâm, nhưng chúng cũng như những đợt sóng xô
vào bờ rồi tự tan biến. Nếu có
sự tỉnh giác, thấy biết những đợt sóng vọng tưởng và cảm xúc, và
không bị cuốn trôi theo đó, thì sẽ có được sự an định nơi tâm. Khi biết rõ tâm mình và nhận thấy được
thực chất vô thường của những ý tưởng, cảm xúc khởi động, người
ấy sẽõ làm chủ được con trâu hoang của vọng tâm và được giải thoát, và đó là sự giải
thoát có ý nghĩa thiết thực nhất. Tâm cũng như một căn nhà, tâm an định như nhà có chủ, không ai
có thể vào xâm chiếm được, còn không có chủ thì bốn bề đều trống
vắng, tha hồ cho những thế lực ở ngoài tràn vào tác yêu tác
quái.”
Thực hành quán tâm,
theo Ricardo, tuy xuất xứ từ đạo Phật nhưng vượt ra ngoài ranh giới
của tất cả các đạo giáo, vì đó là chân lý sống thực, áp dụng cho
tất cả mọi con người. Vốn thực tế, anh muốn thử thực tập ngay những điều vừa nghe đó
với mình. Từ trước tới giờ tâm anh
đã như một căn nhà bị bỏ hoang; giòng máu nóng Latin trong người luôn
luôn làm anh phản ứng thật nhanh chóng theo những cảm xúc đam mê,
khiến nhiều khi không khỏi cảm thấy hối tiếc, phiền não. Nghĩ đến căn nhà của mình cũng đang bị
những thế lực bên ngoài xâm lấn, anh tự nhủ phải nhất quyết lấy
lại tâm mình, cũng như dành lại
quyền làm chủ cho căn nhà đang ở. Nhưng làm sao đối phó với những gì không biết rõ xuất xứ và
nguyên nhân?
Theo tôn giáo của anh,
những linh hồn khi đã chết mà cứ còn lẩn quẩn nơi cảnh cũ thì không
phải là người nữa mà đã biến thành ma, thành quỷ, cần phải nhờ
đến Thần lực của Chúa để trục xuất về một cõi giới nào đó. Nhưng theo quan niệm của đạo Phật, đó
là những chúng sinh đang đau khổ không khác gì những con người đang đau
khổ, cần phải được thức tỉnh siêu độ để họ giải thoát ra khỏi ngục
tù tâm thức của mình. Ricardo quyết
định áp dụng phương thức của đạo Phật, anh dùng một cây thánh giá làm biểu tượng và đọc lời cầu
nguyện cho những linh hồn còn vất vưởng đâu đây không còn vương vấn
kiếp sống cũ nữa và ra đi về một chân trời mới. Lạ thay, khi mở lòng từ bi hướng về
những linh hồn không tên cầu nguyện , anh cảm thấy như có được sự an định, vững chãi, và như mình được mạnh lên, không
còn bị chao đảo, sợ hãi. Căn nhà
anh đang ở dường như trở về bình thường
như cũ, và đôi khi nếu có những tiếng động thì cũng chỉ là tiếng
động, không còn chi phối được anh như trước nữa. Cuối cùng, anh đã dành lại quyền làm
chủ căn nhà của anh, căn nhà vật
chất mà anh đã bỏ hoang bấy lâu nay.
Nhưng trong thâm tâm
Ricardo vẫn cảm thấy như căn nhà hiện nay cũng như tất cả những căn
nhà khác mà anh đã đi qua đều không phải là nhà thực sự của mình.
Thỉnh thoảng, trong giấc mơ, anh lại thấy mình ở trong một nơi chốn
thật đẹp đẽ, chung quanh là biển êm bát ngát, mặt nước xanh biếc như ngọc, gợn sóng lăn tăn lấp lánh phản chiếu bầu trời xanh trong vắt
phía trên. Ngồi trên một tảng
đá, anh cảm thấy không gian chung
quanh tràn đầy niềm an lạc, thanh thản, và có cảm tưởng thật rõ
ràng rằng đây chính là nơi chốn thực sự, là quê hương của anh
từ muôn thuở tới nay.
Những điều anh thấy trong giấc mơ đó tương tự như những điều được mô tả về cõi Tịnh Độ Phổ Đà của Nam Hải Quan Âm Bồ Tát. Phải chăng Ricardo đã có một duyên nào đó với Quan Thế Âm, nên vô hình trung anh đã dùng hạnh nguyện của ngài để cầu siêu độ cho những linh hồn vất vưởng. Khi nghe nói về Quan Thế Âm và các hạnh nguyện của ngài, cũng như cõi Tịnh Độ Phổ Đà mà ngài được coi là thường trú ở đó, Ricardo bỗng thấy như có một cái gì đánh động trong tâm. Anh nhận ra Quan Âm trong một bức tượng trưng bầy trong phòng khách của bà nội, mà anh đã rất thích từ nhỏ. Những dè dặt ban đầu đối với một truyền thống tâm linh khác lạ giờ đây bỗng tan biến hết. Anh nói:
“Tuy không thể bỏ tôn giáo của mình vì những liên hệ ràng buộc, nhưng kể từ nay, tôi tự coi mình như một Phật tử theo đúng nghĩa là một người thực hành đạo Phật; đối với tôi , đó cũng là đi theo chân lý. Mà cũng kỳ diệu thay, chính đạo Phật đã giúp tôi nhận ra được nhiều điều thiêng liêng vượt ngoài giáo điều trong tôn giáo của tôi, mà trước đây tôi không thể nào hiểu ra được.”
Quả đúng như vậy, hình
thức bề ngoài không phải là điều quan trọng, bởi vì chân lý vốn không có tên,
không có hình tướng. “Tất cả những
gì có hình tướng đều chỉ là hư vọng” mà thôi.
Mùa đông đến , những
ngày cuối năm không khí tưng bừng nhộn nhịp các cửa hàng mua sắm và
những trang hoàng Giáng Sinh rực rỡ. Nhưng mùa đông năm nay là mùa
đông đen tối nhất đối với Ricardo. Sau khi trải qua những ngày tháng thật khó khăn trong nỗi đau
tận cùng của thể xác , mẹ Ricardo đã trút hơi thở cuối cùng một tuần sau ngày lễ Thanksgiving. Dù ở bất cứ tuổi nào, nỗi buồn mất
mẹ cũng là một nỗi buồn lớn nhất. Nỗi buồn ấy chỉ có thể được
nguôi ngoai phần nào khi biết rằng chết không phải là chấm dứt tất
cả, mà là khởi đầu một sự chuyển tiếp qua một đời sống mới.
Mỗi cuối tuần, Ricardo đều đem hoa đến thăm mộ mẹ. Nỗi nhớ thương dâng đầy trong nước mắt ràn rụa, nhưng anh biết rằng sự thương nhớ quá độ sẽ cản trở cho chuyến du hành sắp tới của mẹ mình. Anh tự nhủ, trong 49 ngày nay sẽ thường xuyên nguyện cầu cho mẹ được ra đi về chốn an bình và không còn luyến tiếc gì trang sách của một kiếp nhân sinh đã khép lại nữa. Giòng nước đã đi qua không bao giờ còn có thể trở lại được, giờ đây, anh cũng như giòng nước trôi chẩy đi mãi, chỉ có tiến đến trước mà không quay lại đàng sau.
Tháng bẩy Vu Lan, hè 2005
(Tặng Fernando)