Khóa Tiếp Tâm đầu tiên

11 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 8626)




Khóa Tiếp Tâm đầu tiên

 

 

 Không biết trước mọi việc sẽ như thế nào nên tôi không lo lắng gì lắm về khóa tiếp tâm (sesshin) đầu tiên sắp tới. Gerald, đã từng có kinh nghiệm, nói với tôi rằng: "Dễ lắm, chỉ có thiền nhiều hơn ngày thường một chút thôi." Anh khuyên tôi nên trữ một số đồ ăn, vì cổng thiền viện sẽ đóng lại và tôi sẽ không đi ra tiệm ăn ở ngoài được.



 "Đồ ăn à?" Tôi hỏi. "Đồ ăn gì? Đồ hộp chăng? Nhưng tôi không thể nấu đồ ăn riêng của mình trong bếp được. Và tôi cũng không được có bếp điện ở trong phòng vì vị sư trưởng nói dây điện trong đó yếu lắm -- vả lại còn có nguy cơ cháy nhà nữa, chung quanh toàn là gỗ và giấy, và chiếu rơm lót sàn nữa."



 "Không," Gerald nói. "Anh phải mua trữ một ít thỏi chocolat và một số bánh nhạt ăn dần. Để tôi đi mua cho anh."



 Anh cũng mua cho tôi một túi lớn đậu phộng trộn lẫn với nho khô, nghe nói là loại thức ăn lý tưởng cho người leo núi và người ngồi thiền. Ngồi thiền cũng là một công việc nặng nhọc, vì tập trung tư tưởng và tự kiểm soát mình phải dùng đến nhiều năng lực. Theo Gerald chế độ ăn uống của các vị sư không tốt chút nào. Lúc nào cũng chỉ cháo và củ cải, đôi khi mì với nước tương, lâu lâu có dưa chuột, và còn phải ăn cho nhanh -- thật không tốt cho sức khỏe. "Họ đều bị đau dạ dầy cả," Anh nói. "Vào phòng họ xem, trên kệ nào cũng đầy cả thuốc. Mình phải ăn uống đầy đủ các món, trứng, sữa, bánh mì, phó mát, bí-tết này, và soup thật bổ , cũng như thật nhiều trái cây và rau tươi nữa."



 "Nhưng Phật tử đâu có được sát sinh? Và họ không được ăn thịt nữa, vì đó là một cách sát sinh gián tiếp."


 Gerald không nghĩ vậy. "Vô nghĩa lý. Nếu anh ăn rau anh cũng giết những sinh vật vậy. Mỗi lần có động tác gì, anh đều có thể giết một con côn trùng hay một sinh vật nào đó. Trong người anh những con vi trùng bị giết hàng ngày. Và chết là gì? Cũng chỉ là một ảo tưởng, là sự thay đổi, là sự sanh tiếp nối, một quá trình chuyển tiếp từ một chặng này qua chặng khác mà thôi."


 "Thế thì tại sao những vị sư không ăn thịt?"


 "Họ có ăn thịt," Gerald nói, "nhưng không phải ở đây, không phải trong thiền viện. Họ thường được những người quanh đây mời đến dùng cơm và rồi họ ăn tất cả những gì người ta cúng dường, thịt, cá, tôm, có gì ăn nấy. Và bởi vì họ biết trong thiền viện ăn uống thiếu thốn nên đôi khi họ ăn nhiều quá. Cứ nhìn lúc họ trở về chùa thì biết -- người họ phình ra, đi không nổi nữa. Làm như thế rất hại cho sức khỏe của họ."



 "Nhưng tại sao thiền viện lại có những luật lệ hại sức khỏe như vậy? Những người chỉ đạo ở đây không phải là những tâm hồn giác ngộ sao?"



 Gerald nhìn tôi ngạc nhiên. "Anh nói giống như một bà già, đi tìm một cảnh giới cao siêu nào đó. Tâm hồn giác ngộ ư! Có lẽ ý anh nói là vị thầy và vị sư trưởng ở đây biết tường tận hết mọi việc. Họ có biết đấy, nhưng họ là người Nhật. Nhật Bản là một nước của truyền thống. Ở đây cái gì họ cũng muốn giữ lại. Thử đi vào một tiệm xem, anh sẽ thấy mọi thứ đều được gói lại thật đẹp và cẩn thận. Nhìn vào trong nhà họ: người nào trong tủ cũng đầy những cái hộp trang trí thật đẹp, trong mỗi hộp lại có một hộp khác và rồi có những dây cột, những mảnh vải gói ghém, mà phải mở hết lớp này đến lớp khác anh mới tìm ra được cái gì trong đó."


 "Đóng gói rất quan trọng ở đây, và sự tu tập chúng ta đang theo được đóng gói chặt chẽ với những truyền thống. Một ngàn năm về trước một vị thiền sư nào đó đã ăn cháo nóng hổi và bây giờ người ta vẫn nhất định làm như vậy. Và một ngàn năm về trước một vị sư nào đó bảo là không được ăn thịt và thế là các thiền sư bây giờ từ chối không ăn thịt nữa, làm như sợ có ai đang theo dõi và kiểm soát họ vậy."



 Ngày hôm sau buổi nói chuyện đó, khóa tiếp tâm bắt đầu và Gerald dọn vào căn phòng kế bên tôi, đem theo một cái túi lớn đầy quần áo và đồ ăn. Sau buổi thiền sớm anh ta bầy biện đồ đạc trong phòng bằng cách trải tấm túi ngủ ra trên sàn. Rồi chúng tôi phải đi làm việc. Chúng tôi phải nhổ cỏ trong vườn đá, một công việc tỉ mỉ, vì cỏ dại không cao hơn những cây cỏ rêu là bao nhiêu và lại có mầu giống nhau nữa. Các vị sư ngồi xổm xuống, hai chân bằng phẳng trên mặt đất. Gerald không có vấn đề gì khi ngồi xổm trên hai gót chân của anh ta, nhưng tôi không thể làm như thế dễ dàng được. Vị sư trưởng đã khuyên tôi phải nên ngồi xổm càng nhiều càng tốt, dù cho có bị đau cũng vậy. Đó là một cách vận động tốt, sẽ làm cho những bắp thịt đùi được dài ra và cho người tôi được dẻo dai hơn. Nhờ đó dần dần tôi sẽ có thể ngồi trong thế kiết già được mà không cảm thấy đau gì nữa. Tôi đã không muốn nghe lời ông mà đi tìm được một cái hộp gỗ nhỏ và đem theo luôn bên mình mỗi khi phải ra vườn làm việc, khiến tôi có thể ngồi được một cách thoải mái. Lần này tôi cũng có hộp gỗ này và đang ngồi êm đềm trên đó nhổ cỏ và nói chuyện với Gerald; thì bỗng nhiên cái hộp bị đá văng ra khỏi tôi. Tôi ngã ngửa ra sau nhưng rồi nhẩy lên, sẵn sàng tấn công bất cứ kẻ nào đã chơi trò như vậy. Sân hận là một tình cảm đến rất nhanh, chỉ không quá một hay hai giây tôi đã biến đổi từ một tâm hồn an bình thành một kẻ điên cuồng giận dữ. Tôi thấy vị sư trưởng đang đứng trước mặt tôi, bất động như bao giờ nhưng trong đôi mắt mở rộng của ông có một tia sáng mãnh liệt. Ông đứng hơi dạng chân, bụng hơi đưa ra đằng trước, trong thế thăng bằng của một võ sĩ nhu đạo. Nếu tôi tấn công ông, như tôi đã định, tôi cũng sẽ không thể quật ngã được ông, và nếu tôi muốn đá hay muốn đánh ông, ông cũng có thể tránh được dễ dàng và đánh bại tôi bằng chính sức mạnh của tôi.



 Sự bình tĩnh của ông làm tôi tự kiềm chế được mình, nhưng hơi thở của tôi bị rối loạn trong một vài phút. Gerald tiếp tục làm việc như không có gì xẩy ra, và vị sư trưởng cúi xuống nhặt cái hộp gỗ lên. Tôi cúi đầu chào, ông gật đầu và bước đi.


 "Hay lắm," Gerald nói, "Thông thường một người trên hay nổi giận khi nghĩ rằng cấp dưới của mình đã hành động một cách ngu xuẩn, hay đã qua mặt mình. Và ông ta nổi giận bởi vì ông không có tự tin nơi mình, hoặc là vì ông thấy mình là quan trọng, hoặc ông tự đồng hóa mình với một "lý tưởng" nào đó, như là "công ty" hoặc "công việc" chẳng hạn. Nhưng những lý tưởng này thật sự là không có. Đây chỉ là vấn đề tỉnh thức, là biết mình đang làm gì. Nếu anh đang nhổ cỏ dại từ trong đám cỏ rêu anh phải tập trung làm hết sức mình, mà không cần phải tìm cách ngồi cho tiện nghi."


 "Điều đó quan trọng vậy sao?"


 "Dĩ nhiên," Gerald nói. "Không có gì là quan trọng, không có gì đáng đặt thành vấn đề, nhưng sự tinh tấn, làm hết sức mình những việc cần làm lại là quan trọng và đáng đặt thành vấn đề. Làm chỉ để làm, vậy thôi. Đó cũng chỉ là một cách vận động, vậy thôi, không hơn không kém. Cũng tựa như tứ diệu đế của đạo Phật vậy. Đời là khổ. Khổ do dục vọng gây nên. Dục vọng có thể đươc giải trừ. Phương pháp giải trừ là bát chánh đạo. Nhưng làm sao để đi trên con đường bát chánh đạo? Bằng sự mong cầu được giải thoát. Bằng sự mong cầu đoạn diệt được mong cầu. Cái mong cầu như vậy là đúng. Chỉ mong cầu không thì sai, mà mong cầu để đoạn diệt mong cầu là rất tốt. Giản dị thế thôi."


 "Tôi tưởng thiền không cần nói nhiều lời."


 "Phải," Gerald nói. "Và tôi đang nói nhiều lời. Nhưng những gì tôi nói không phải là Thiền. Tôi cũng không hề có ý niệm thiền là thế nào, nhưng tôi biết một ngày kia tôi sẽ hiểu được và đó là lý do tại sao tôi có mặt ở đây."


 Chẳng mấy chốc sau các thời thiền tập lại bắt đầu: có bốn thời, gồm hai tiếng tất cả. Tôi muốn hút thuốc nhưng không có thì giờ, nên tôi chỉ rít được vài hơi trong nhà vệ sinh rồi giữ mẩu còn lại trong túi áo. Đến cuối tuần túi áo tôi đầy những mẩu thuốc lá hút dở, vì tôi cứ tiếp tục châm những điếu thuốc mới mà không để ý gì cả. Buổi chiều chúng tôi thiền hai tiếng nữa, và buổi tối thiền đến bốn tiếng rưỡi. Thời gian như bị kéo dài ra một cách giả tạo. Bởi vì tôi đau đớn liên miên nên ý thức tôi bị cưỡng bách phải cảm nhận sự tra tấn đó, từng giây từng phút một. Lâu lâu vị sư trưởng cho phép tôi đi bộ, ông vẫy tay cho tôi rời bỏ chỗ ngồi và đi ra vườn trong một thời. Lúc ấy thời gian sẽ qua thật mau. Đôi khi, nhưng rất hiếm khi, ông cho tôi trở về phòng và tôi sẽ gieo mình xuống sàn nằm thẳng lưng trong hai mươi lăm phút. Bởi vì tôi sẵn sàng ngủ bất cứ lúc nào, nên mặc dù cố gắng tập trung vào công án, thời gian lúc đó sẽ qua nhanh như gió thổi.


 Trong một lúc không thể nào nghĩ đến hai thứ được nên tôi lợi dụng nguyên tắc này để quên đi cơn đau. Tôi nhớ lại những thời hưng phấn nhất trong đời và cố sống lại những mảnh vụn quá khứ đó. Lúc bấy giờ, không tìm được câu trả lời cho công án không thành vấn đề nữa, mà tôi chỉ quan tâm đến việc làm sao cho hết được cơn đau, vì tôi chắc chắn rằng những bắp thịt đùi tôi như đang bị xé tan ra và xương ống như đang bị khoan ra khỏi chân tôi. Tôi cố gắng tưởng tượng nhiều lần đến hình ảnh tôi về lại Cape Town, thấy mình đang đi ra trước cửa nhà và mở máy xe gắn máy. Tôi sống lại từng động tác, thấy lại hàng cây bên đường và ngửi mùi hương thơm của những cây hoa trong vườn.Tôi nghe tiếng gầm của xe gắn máy và phóng đi, qua những đường phố chật hẹp của Wynberg, hướng về đường Waal Drive, băng qua núi rừng, dọc theo những bãi biển, rồi đi qua những ngọn núi và ngang những bãi biển. Đôi khi tôi có thể tiêu khiển được cả một thời thiền tập hai mươi lăm phút bằng cách đó và Gerald chúc mừng tôi. Anh ngồi cạnh tôi và để ý thấy tôi đã không đụng đậy gi trong một thời, như đang chìm đắm vào sự tập trung tư tưởng. Tôi kể cho anh nghe tôi đã làm gì và anh cười lớn lên.


 "Đôi khi tôi cũng làm như vậy nữa," anh nói.



 Sau ngày thứ ba tôi bắt đầu bị nhiễu loạn. Cơn đau đớn của những lúc ngồi thiền cũng như sự căng thẳng của những lần tham vấn với vị thầy đã bắt đầu có ảnh hưởng. Trong tuần này vị thầy bỗng dưng biến đổi thành dữ dội như một con sư tử. Trong phòng ông tôi cảm thấy được sức mạnh của năng lực phát xuất từ nơi ông, và ý chí đang trấn áp của ông trên tôi. Tôi bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời cho công án, một câu trả lời chấp nhận được cho một câu hỏi không thể hiểu nổi, không thể phân tích hay quyết định được. Tôi đã đưa ra mọi câu trả lời tôi có thể nghĩ được và không có câu nào được coi là tốt cả. Tôi vẫn còn xa lắc xa lơ, ông nói mãi như vậy. Tôi vẫn còn chưa thể bắt đầu có được một hiểu biết thực sự, còn cách xa cả muôn vạn dậm, cách hàng bao nhiêu năm ánh sáng đến cái bóng nào đó của chân lý. Tôi tin rằng ông đúng hoàn toàn. Nhưng nếu tôi không nói gì ông cũng vẫn không chấp nhận. Tôi đi vào trong phòng ông, vái chào, cúi lậy ba lần trên mặt đất, rồi quỳ gối và đọc lại công án của mình và rồi vị thầy nhìn tôi hỏi.


 "Sao?"


 "Sao, chẳng có gì hết. Không có một ý kiến nào cả."


 Nhưng tôi không cần phải nói, vì tôi không biết, và đó là điều thật hiển nhiên rõ ràng.



 Đôi khi ông cho tôi lui ra mà không nói gì hết, đôi khi ông nói một vài câu , và có lần ông nói với tôi ít nhất đến mười phút. Khi tôi rời phòng ông những giọt nước mắt bực tức dâng đầy lên trong mắt. Tôi đã không hiểu nổi những gì ông nói với tôi, vì vốn liếng Nhật ngữ quá ít ỏi. Tôi đã du hành qua nửa vòng trái đất để đi tìm một vị thầy, tôi đã tìm được vị thầy đó, nhưng không hiểu được ông ta muốn nói gì.



 Nhưng những người khác cũng có vấn đề nữa. Vị sư trưởng ngồi trong thiền đường như một hung thần mãnh liệt và đáng sợ, quát mắng khi ông thấy chúng tôi đang ngủ gục hay mơ mộng vẩn vơ. Ông bắt chúng tôi phải đi kiểm tra thường trực, và mỗi người trong chúng tôi phải đi vòng quanh, thiền trượng trên vai, di chuyển chậm chạp với những bước chân đe dọa và nhìn kỹ từng người một. Bất cứ người nào đang ngồi ngả nghiêng hay ngủ gục trước hết sẽ bị nắm vào vai. Sau đó hai bên cúi chào nhau : vị sư sắp lấy thiền trượng đánh cúi chào bởi vì ông cám ơn đã được giao cho nhiệm vụ cảnh tỉnh, và vị sư sắp bị đánh cũng tỏ vẻ cám ơn. Sau đó thiền trượng được đem đánh 8 lần. Vị sư bị đánh phải nghiêng người ra trước để cho cái roi rơi vào nơi bắp thịt lưng của ông. Chúng tôi phải đánh thật nhanh, điều khiển cái roi sao cho nó bật lại ngay, để chỉ chạm vào da thịt trong một giây chớp nhoáng. Tôi đã phải tập làm như vậy với một vị sư đã có một cái gối bao trên lưng. Cái roi này, nếu không được xử dụng đúng cách, có thể gây thương tích trầm trọng, nhất là khi đánh lên trên xương sống. Các vị sư trong thiền đường thường mặc thêm những chiếc áo gi-lê độn nhiều lớp, tôi mặc thêm một áo thun dầy. Mặc dù vậy cơn đau cũng thật thấm thía, và đến cuối tuần trên lưng tôi in dấu một vết thập tím bầm. Nhưng cái đau này không thể nào so sánh được với cái đau của hai bắp chân. Khi bị đánh cái đau sẽ tan biến ngay sau đó nhưng cái đau ở chân dường như không bao giờ qua đi -- ngay cả lúc tôi đi bộ cái đau nhức nhối đó vẫn còn tiếp tục. Các vị sư bầy tỏ sự thương cảm và hỏi thăm tôi thường xuyên . Điều đó cũng giúp tôi phần nào. Một vị sư trẻ đã bị thương ở chân trong khi chẻ củi cũng thường xuyên bị đau, vì vết thương của ông không có dịp lành lại. Tôi thấy ông khóc khi tôi đi ngang qua và khi tôi làm lơ như không thấy ông đang cựa quậy và rõ ràng là không chú tâm thiền định, vị sư trưởng đã quát lên và tôi phải trở lại cho ông ta tám roi. Sau đó, trong phòng ăn, ông đã mỉm cười cúi đầu chào khi thấy tôi.



 Tôi bắt đầu lẩm bẩm một mình và đi đâm vào trong tường và cây cối. Khi tôi nói điều gì những chữ trong đó rời rạc không liên hệ gì với nhau và những câu nói của tôi không đầu không đuôi vào đâu cả. Gerald cũng bắt đầu tỏ những dấu hiệu bất thường.



 Khi tôi nhìn anh ta đôi mắt anh như lạc lõng nơi đâu và anh nhìn thẳng như xuyên qua tôi. Khung cảnh chung quanh bắt đầu làm tôi thấy khó chịu. Tôi cố tìm kiếm một chỗ ngồi, một cái ghế, một băng ghế hay bất cứ cái gì tôi có thể ngồi hay nằm lên được. Nhưng không có gì như vậy cả. Nơi nơi chỉ là những phòng trống, với chiếu lót sàn, và không có gì khác ngoài vài tảng đá gồ ghề và những mộ bia trong khuôn viên. Tôi cũng không thể nằm xuống đất được: mấy hôm nay trời mưa nhiều đã làm ướt đẫm mặt đất. Phòng tôi là cấm địa không được bén mảng vào. Tôi được phép ngủ trong đó từ 11 giờ đêm đến 3 giờ sáng, nhưng những lúc còn lại trong ngày tôi không được vào đó trừ khi vị sư trưởng cho phép tôi vào nằm nghỉ khoảng nửa tiếng, nhưng điều đó không đến mỗi ngày.


 Gerald nghĩ rằng tôi đang sống một đời sống sung sướng thoải mái. Anh hỏi tôi có bao giờ ngồi thiền trong vườn không.


 "Trong vườn? Tôi làm gì trong vườn? Chúng ta đã thiền trong thiền đường rồi, phải không?"


 "Phải," Gerald nói. "Nhưng họ cũng muốn chúng ta phải thiền thêm nửa tiếng mỗi đêm ngoài vườn. Đêm nay anh thử ra vườn lúc 11 giờ đêm mà xem. Anh sẽ thấy đủ mặt mọi người; tất cả đều ngồi trên những tảng đá hay những mộ bia -- ai có chỗ nấy hết. Nửa tiếng thiền thêm, bắt buộc đó."


 Tôi không tin anh, nhưng cũng bỏ ra một vài phút quý báu của mấy tiếng ngủ đêm đó ra vườn xem. Anh ta nói đúng thật. Nhưng tôi không cảm thấy sự bắt buộc mình phải noi theo những gương tốt đó. Tôi nghĩ tôi đã làm đủ, quá đủ rồi. Tôi sẽ chỉ ra vườn ngồi thiền khi nào họ nắm tóc lôi tôi ra, và đêm đó tôi rúc mình vào trong túi ngủ, lầu bầu một cách vui sướng và "thăng" luôn trước khi tôi kịp duỗi thẳng đôi chân đến đáy của túi ngủ.


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Hoa Súng