ĐỌC LẠI
Đôi vần Thơ trong
Tuyển Tập DƯỚI LÁ.
“Mùa thu trở về đi dưới lá góp nhặt lại những vần thơ rơi rụng suốt bốn mùa qua. Mỗi bài thơ là một chiếc lá, những chiếc lá xanh màu mạ non của mùa xuân vừa qua, hay những chiếc lá đã úa vàng của mùa thu đang về. Mỗi ý thơ là một bông hoa, tất cả đan kết lại thành một vườn hoa, khu vườn ý nghĩ.
Mùa thu đi dưới lá ta hãy giở lại từng trang thơ, ta hãy đọc lại từng hương thơ nhưng chớ nên đọc thật to, vì hương thơ chính là hơi thở nhẹ nhàng. Thơ chính là những ẩn khuất thầm kín nhất, và thơ cũng chính là những gì bộc lộ mãnh liệt nhất, thơ không chỉ được nhìn ngắm đơn giản như những hoa quả khéo bày trong bức tranh tĩnh vật, bởi vì thơ còn là hơi thở gần gũi với cuộc sống. Trở lại khu vườn thơ không phải chỉ là cơ hội để ta khơi đào những kỷ niệm đã qua, quay lại khu vườn thơ còn chính là để nhìn ngắm lại khuôn mặt mình, rồi những khuôn mặt thân quen...''
Đấy là những lời mở đầu của Phùng Quân trong phần Bạt giới thiệu tuyển tập thơ DƯỚI LÁ, do Tin Việt Nam ấn hành tại Đông Kinh mùa thu 1972. Tuyển tập bao gồm 18 tên tác giả, trải dài trên khoảng 60 bài thơ, đã lần lượt được đăng trên bán nguyệt san Tin Việt Nam trong những năm 1971-1972.
Có những bài thơ thật dài như suy nghĩ
Có những câu thơ thật ngắn như tiếng cười
Ta cười vang giữa dòng đời
Tan vào dòng suối tiễn người bên sông.
Mà thật, khi đọc lại những bài thơ trong tuyển tập DƯỚI LÁ, quả là có những bài thơ thật ngắn, ngắn như áng chừng không thể ngắn hơn, và lạ kỳ là những cảm giác rơi rớt lại đằng sau, lẩn khuất trong lòng người yêu thơ thì chẳng ngắn như tiếng cười mà lãng đãng mênh mang như muốn khởi đầu cho những suy nghĩ dài sau. Bài thơ “Rối” của Phạm Thế Định là một thí dụ điển hình:
Có thật nhiều con cua
Bò trên những suy nghĩ
Có cả trăm thứ mùa
Rơi trên cơn mộng mị
Không hiểu sao tôi vẫn thích đọc những bài thơ thật ngắn, lý do chẳng phải những bài thơ thật ngắn ấy dễ đọc, dễ nhớ mà hình như ở đó mới chính là những morceaux bất chợt đúng nghĩa của tâm hồn: chợt đến, chợt đi, chợt ẩn, chợt hiện như một thứ trò chơi cút bắt, mà chỉ có thi nhân với cánh tay dài diệu ảo, với đôi mắt nhìn xuyên mấy cõi, mới có thể chộp bắt, ghìm giữ mà không làm hư hỏng đến hình hài. Chẳng thế mà những bài Haiku trong toàn bộ thế giới thi ca Nhật Bản đã lại chẳng phải là những bài thơ dài? Mà đôi khi chỉ là một tiếng thét giữa thinh không đại ngộ, một giọt mưa nặng hạt đầu mùa, “Độp” trên mái tôn đầu ngõ, hay chỉ là một tiếng “Tõm” của chú nhái bén, vụt ẩn mình trong ao thu một đêm trăng.
Hơn 60 bài thơ trên mười khuôn mặt cùng góp tiếng, trong một khoảng thời gian không quá dài, của những tâm hồn cùng chung lứa tuổi đôi mươi, thì đúng là:
“Thơ chính là người. Đọc một bài thơ chính là ta đã bước vào tâm hồn của một người, có thể chúng ta sẽ tìm thấy ở đó những khuôn mặt hiện rõ, hay có thể chúng ta sẽ không tìm thấy ở đó một điều nào hết. Bởi vì thơ còn là những khúc mắc, những gì không thể giãi bầy cũng chính là thơ. Thơ không phải chỉ được hiểu đơn thuần từ cái nhìn về tình yêu, về một cuộc tình đã chết, hay một cuộc tình mới độ thăng hoa. Người ta đã dùng thơ để ca tụng những cuộc tình mới lớn, cũng như người ta đã dùng thơ để chở sang bên sông những cuộc tình tan vỡ. Thơ không chỉ là huyền thoại, thơ còn là một thực tại xoay tròn trong ý nghĩ. Thơ có thể là một mẩu bánh mì, điếu thuốc lá, hạt gạo trong phòng ăn, thơ còn chính là sự ứng cảm từ những đồ vật lẩn khuất chung quanh.”
Thơ luôn cần một sự khám phá, không còn khám phá mới lạ nữa sẽ chẳng còn là thơ. Có lẽ đó cũng chính là những nét độc đáo trong thơ Lan Hương, có một chút gì ngỗ nghịch, bất cần đời nhưng dường như đằng sau cái sân khấu trình diễn ấy, vẫn là một hậu trường đam mê, bồng bột và chí tình. Tôi mời các bạn cùng đọc lại bài thơ “Một ngày” của Lan Hương sau đây:
Buổi sáng dụi mắt điểm tâm bằng tiếng reo đồng hồ báo thức,
một ngày vụt qua trên nhan sắc lặng nghe hai mươi bốn giờ
mười hai giờ bẻ lại cổ áo đi vào lớp học,
mười hai giờ rong chơi, ăn ngủ, đi về, thương nhớ.
thời gian qua âm thầm như thói quen như hơi thở.
một ngày, hai ngày, ba ngày ...
khoảng chân không khép xuống đời vời vợi chiếu chăn.
Buổi trưa đếm từng hạt gạo trong phòng ăn,
nghe con chim hót theo tiếng đàn trong ánh nắng.
xem ông thầy qua lại đấu hót trên bảng đen.
gió nào để mây đi lang thang trong lớp học
Buổi chiều ngồi chải tóc,
bầu trời hình khung vuông,
mây đi về đơn độc,
hoàng hôn như bình thường
Buổi tối ngồi học bài một mình,
mặt trời trong lò sưởi một mình,
người ca sĩ hát trong tape nhạc một mình,
ôi quê hương, ôi quê hương rất một mình.
ban đêm nằm ngủ trên mặt kính đồng hồ báo thức
một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn năm ngày.
Có những vần thơ còn mang đậm nét khí khái hiên ngang của một thuở Ta, tráng sĩ hề, gặp thời loạn lạc, của kẻ nặng nợ trên vai một mối tình, mà khi muốn gửi gắm lại đôi lời từ biệt đến người yêu, thì mang mang như tâm sự của Kinh Kha một kẻ sang Tần. Bản chất của thi nhân là những kẻ sống với lý tưởng, hay nói một cách khác hơn chính thi nhân đã lý tưởng hóa cuộc đời. Thất vọng, vỡ mộng hay vấp ngã chẳng qua chỉ là những chất liệu cần thiết nuôi sống cho những ước vọng kiếm tìm. Bởi thế những kẻ thích sống một cuộc sống vật chất, ham chuộng thực tế, sẽ khó là một thi nhân. Có lẽ nào một gã lái buôn trong buổi chợ chiều lại là một thi sĩ bao giờ? Chúng ta hãy cùng bước vào vườn thơ của Trịnh Khanh:
Ngọn cỏ gió đùa bay mùa thu
Hai tay ôm kín mộng thay mùa
Tóc em gió lộng về phương Bắc
Một nụ cười thôi đủ ước mơ
Mênh mang tóc dựng chân mày xếch
Gươm đã mài lâu bén lưỡi chờ
Tiếng sáo sang sông buồn quá lắm
Rượu cay sao đắng lưỡi thờ ơ
Cất tiếng cười vang vang dòng sông
Chỉ gươm chia cắt dòng đôi dòng
Mai sau trăng lặn về bên ấy
Ngủ kỹ dùm ta đôi mắt trong
Một nửa đời ôm trời phiêu bạt
Đắng cay này đã trải gần muôn
Mà lúc chia tay còn bịn rịn
Ngàn câu khí khái chẳng che buồn.
Thơ như một ký ức dễ dàng cho những ghi khắc rung động đầu đời. Ở đấy, khung trời thơ hãy còn nguyên vẹn một màu xanh, cho dù ai sáng nay thức dậy nhìn về nơi cố quận, ngàn dâu vẫn xanh ngắt một màu. Xin mời các bạn hãy cùng ghé vào một trang thơ “Răng chừ bé thương...” còn thơm mùi “mực tím” của LVT:
Bên ni là thương,
Bên nớ là thương,
Bé ơi có nắng vàng vương xóm mình
Chim lên tiếng gọi bình minh
Sớm xưa, bé dậy làm thinh học bài
Vu vơ, bé nghĩ... một mai...!
Thẹn cười, tím cả áo dài ngày xưa...
Nhưng thơ không phải lúc nào cũng bình yên, đầy hứa hẹn như những đợt nắng ban mai. Bởi vì tình yêu không phải đôi khi, mà hầu như lúc nào cũng lẫn lộn giữa nụ cười và nước mắt, là những rối bời quay quắt, là những si mê rồ dại chết người. Chênh vênh trên lằn biên giới đó, một phút tỉnh ra để thấy xung quanh vẫn toàn là những dấu hỏi: ta vội vã hỏi người, ta quay lại hỏi mình. Rồi chính ta lại tự trả lời cho những điều không thể hỏi. Hãy thử đọc lại bài thơ “Bởi vì...” của Thụy Lôi:
Bởi vì tâm hồn em sao lắm ngã tư
Nên anh muốn hỏi thăm em về những ngọn đèn cuối phố
Nên anh muốn hỏi thăm em về những ngọn đèn xanh đèn đỏ trong tâm hồn em
Hay cả ngọn đèn vàng bỡ ngỡ
Bởi vì những hạt bụi tình yêu
Có đôi lần làm anh thêm sáng tỏ
Con đường một chiều dẫn đến tâm hồn em
Con đường một chiều nhưng lại rất không quen
Bởi vì tâm hồn anh có những ngã ba
Nên anh không thể nào nói cho em nghe
Thế nào là đèn xanh đèn đỏ đèn vàng
Bởi vì tâm hồn anh có những sân ga
Nên em hãy đến với anh
Nhưng xin đừng bằng chuyến xe lửa tốc hành buổi sáng.
Có lẽ trong thơ, tình yêu bao giờ và mãi mãi cũng vẫn là mật ngọt. Và hơn bao giờ hết bước vào lứa tuổi đôi mươi, thơ Nguyễn Hương Phượng bên cạnh những e ấp thường tình đã xoải cánh tung bay cho đầy những vỗ về hứa hẹn, chất ngất trong bài “Hương Yêu”:
Tôi thích có em trong buổi chiều
Thì thầm em nói những lời yêu
Và mong thời gian đừng vội vã
Làm tan hình bóng quá yêu kiều
Tôi thích tóc em trong gió bay
Đuổi xa những tháng cũng như ngày
Và mong thời gian đi chậm lại
Để hương tình ấy cất men say
Tôi thích mắt em khi dối gian
Niềm thương thuở cũ lớn vô ngàn
Tôi mong thời gian đừng đổi mới
Và màu mắt ấy ấm hương lan.
Nói đến thơ không thể không nhắc đến những vần thơ lục bát, với cung cách gieo vận truyền thống dễ dãi và hữu tình. Chẳng vậy mà tục ngữ ca dao phần nhiều là lục bát. Cả một thiên truyện Kiều đều là lục bát, mà những bài vè cũng là lục bát. Hẳn nhiên không có một ranh giới phân định đâu là thơ, đâu là vè. Nói một cách khác không dễ tìm gặp được một bài thơ lục bát đúng nghĩa. Mời các bạn cùng đọc lại “Ta ru ta ngủ” của Trần Cơ Lộ:
Mưa dầm ngày tháng lê thê
Đường trơn ướt áo em về bến nao
Gởi tình theo giấc chiêm bao
Vẽ lên giọt nắng thấy màu tên em
Ngây thơ em chậm làm duyên
Nguồn thơ ta cạn chút phiền ta dâng
Đôi mi ảo tưởng lâng lâng
Ta ru ta ngủ bằng hình bóng em.
Và để kết thúc cho phần đọc lại Đôi vần THƠ trong Tuyển Tập DƯỚI LÁ, xin mời các bạn cùng một lần ghé lại vườn thơ Nghiên Huy Thân, để cùng thưởng thức và chia xẻ những băn khoăn và thao thức trong một “Chuyến trở về ...” Tác giả có thật sự đã trở về, hay chỉ mơ thấy một chuyến trở về, điều đó có quan trọng hay không sẽ chẳng phải là một điều cần thiết. Tôi chỉ biết cảm thấy một niềm hạnh phúc dâng tràn khi được theo chân tác giả trong “Chuyến trở về...”, thăm lại ngày đó, thời gian chưa xa lắm, mà quay lại ngó chừng tưởng như đã lạc vào một nơi chốn hồng hoang:
dù sao anh cũng trở về
nhìn bàn tay em vỗ về trên gần trăm phím trắng và đen
nghe tấu khúc quen
của ngày xưa gần gũi
anh về tìm lại
mắt nai em thảng thốt
nghe báo tin xa
bữa tình cờ
ngón út tay em rỏ giọt mi bémol buồn bã
dù sao anh cũng trở về tìm lại dư âm ngọt đắng thân quen
của nước mắt
da vàng
và máu ( giữa lòng tay )
chưa trở màu nâu cũ
trong ký ức em
và hy vọng anh.
rồi như ngày xưa anh đến
từng đêm trễ tràng
nhưng vẫn sớm
và ta ngủ muộn màng, thao thức
chờ ai chờ nhau chờ sao chờ giấc
chờ cái gì đã khuất
mà chưa mất trong ta.
dù sao anh cũng trở về
như một phép lạ khó ngờ
cho kẻ đợi chờ nhau
mà cũng về bình thường lặng lẽ như người già trở về với cốc trà, tẩu thuốc, viên cortancyl nhức mỏi
với căn phòng ẩm mốc buổi chiều mưa
(ôi người già và cuộc đi dạo mỗi đêm
là thói quen êm đềm
hay nhai lại ý niệm thời gian trong đầu bạc bằng hàm răng lung lay còn mấy chiếc)
anh về thực bình thường
từ một xứ bình yên
mà điên cuồng vội vã như hôm qua có ai thoát về từ hố bom An Lộc
nếu gặp anh về em đừng khóc
mà nhìn kỹ dùm anh bàn tay gương mặt
xem giùm anh đã mất chính anh chưa.
anh về Việt Nam như một hiện hình
của chính bóng ma anh chập chờn đây đó trong hơi thuốc nhỏ đầu ngày của Hoàn trong giọt café khuya của Cửu
bóng ma anh trong ký ức mọi người đôi khi khơi sáng bởi hơi-gió-kỷ-niệm lướt qua ánh-nến-hoài-niệm xanh xao
anh hiện về với hơi thở ấm dạt dào có thực
hong khô nước mắt người yêu
người mỗi chiều lang thang đồi vắng gọi nhỏ ơi T.
em chết rồi em chết rồi sao gặp được anh kẻ im lìm như đã chết
người đêm đêm hát trong mơ ru tim mình hãy ngủ thực êm
ru bàn tay mình hãy lạnh để nắm tay anh xa thẳm mịt mùng xa
người bây giờ hôn bóng ma anh mỗi sáng đến trường nói với bóng ma anh trên đường ra phố.
người bây giờ đi nhổ cỏ lấy tiền cứu trợ từng cọng rồi lẩm nhẩm đếm tên anh
người bỗng bơ vơ buồn vì điềm bói xấu trên đóa hoa trâm ổi
không thể nào chịu nổi nên anh trở về
dù sao
em cũng nên cười mặc kệ
nếu trên cổ anh có mấy vòng hoa
choàng cho người yêu nước.
Nếu nói một cách tham lam thì Thơ là tất cả...
Giới hạn không có trong Thơ, sẽ không ai có quyền thẩm định về Thơ.
Vườn thơ DƯỚI LÁ đã mở rộng cho những tâm hồn tìm đến Thơ, nhưng cũng chính vườn thơ đã khép lại sau lưng những tâm hồn không yêu Thơ...
PHÙNG QUÂN
Hàng Gió 2010