Bhadda
(Tóc quăn)
Trong
một tiền
kiếp Bhadda đã sinh ra trong một
dòng họ quý phái và tích lũy được
nhiều công đức
; trong một kiếp
khác cô là một vị
công chúa mộ đạo
tu tập chuyên cần, lập
ra nhiều tịnh
thất, và chưa
bao giờ phạm
giới trong nhiều
ngàn năm.
Nhưng đó chỉ là những bước khởi đầu…
Trong
kiếp này, Bhadda là một
cô con gái được
cha nhất mực
nuông chiều. Cha cô là trưởng
ngân khố của
thành phố Rajagaha, một
người
giầu có sống
trong một thế
giới giầu
sang uy quyền. Vương quốc
Magadha sau khi thắng trận
và chinh phục được các nước
nhỏ chung quanh như
Anga, Kasi, Kosala, cuối cùng là
Vrjji, đã trở nên hùng mạnh,
lên địa vị
một nước lớn. Rajagaha là một
trong những chiến
lợi phẩm
quý giá đạt được - một
thành phố lớn
với 200,000 dân, chung quanh có thành
trì bao bọc kéo dài đến
hàng bao nhiêu dặm.
Bhadda
xinh đẹp, thông minh, nhưng
chắc khó kiếm
được
một người chồng
xứng ý, bởi
vì tính khí cô thật cang cường
và bất mãn triền
miên. Lúc nào cô cũng tranh cãi – tranh cãi với
đời, với
mọi người, ngay cả
với người cha yêu
quý, và lạ thay, hình như
điều đó lại
càng làm cho ông thương
và chiều cô hơn
nữa. Ông chẳng
biết tại
sao Bhadda khó tính như
vậy, nhưng trong thâm tâm ông cũng tự
công nhận rằng
chính những điều
cô nói lại thường có lý. Cô
có một trí thông minh tuyệt
vời, một
khả năng lý luận
thật sắc
bén.
Cũng
như
các anh chị em khác, Bhadda được
một đám người
hầu săn sóc cẩn
thận. Mỗi
ngày cô được
họ tắm
rửa, thay quần
áo và đeo những đồ
trang sức vào. Baddha ăn những
bánh gạo, những
đồ ngọt,
các thức ăn quý như
nem công chả phụng,
đeo sau tai những đồ
trang sức gắn
lông công, và mái tóc dài đen mướt được
vén lên, cột lại
bằng những
trâm lược
trạm châu ngọc
óng ánh. Cô bỏ
ra nhiều tiếng
đồng hồ
trong ngày học cắm
hoa, thêu thùa, tập những
thủ công nghệ
khéo, và học thuộc
lòng những chữ
khó đọc. Nhịp
điệu mỗi
ngày đều đặn
lướt
qua sáng tối với
những buổi
cầu nguyện,
cúng lễ các thần
linh, vong linh, hay bố thí cho những
người
nghèo khó.
Cô
đọc những
bài hát tán thán đức Vệ
Đà, có nghĩa là kiến thức,
với nhạc
cụ và những
dụng cụ
trợ giúp trí nhớ.
Đó là cách học của
con gái. Còn các anh em trai của cô được
đọc những
bài kinh Bà La Môn khó hơn,
trong đó chỉ dẫn
tỉ mỉ
những thủ
tục lễ
nghi và giải thích nghĩa lý tiềm
ẩn trong các bài hát. Cô biết
họ được học
khác hơn,
bởi vì có lần
đã lén rình thấy như
vậy, và thường
mơ
ước
được
học những
điều bí mật
như
họ.
Trong
tâm tư,
Baddha không có lúc nào được
an ổn. Cô dậm
chân bực tức
khi các thầy dạy
học đưa ra những
câu trả lời
vô nghĩa cho các câu hỏi cô đưa
ra. Ở trong thế
giới này nếu
không có kiến thức
thì sống làm gì? Cô tranh cãi và phân
tích, cho đến khi lớp
học chấm
dứt trong sự
mệt nhoài của
các thầy dạy
và làm cho cha mẹ cô cũng muốn
khùng luôn.
Khi
Bhadda lớn lên, cha cô bắt
đầu tìm kiếm
ý trung nhân cho cô, nhưng ông lặng
lẽ loại
dần họ
đi, vì biết tính bất
mãn của con gái mình sẽ
làm cho người
chồng mất
tinh thần và gây phiền
nhiễu cho nhà chồng.
Đến tuổi
16, Bhadda được
bảo vệ
không cho tiếp xúc với
những thanh niên ngoài gia tộc,
và càng ngày cô càng rút sâu vào trong tâm hồn
giông tố của
mình, suốt ngày ngồi
thẫn thờ
im lặng bên cửa
sổ.
Một
hôm, đang đắm mình trong nỗi
âu sầu ảm
đạm không lý do, chợt
cô nghe có tiếng trống
vang lên trong đường
phố, và thấy
một đám lính đi ngang qua cửa
sổ. Họ
đang giải một
phạm nhân đeo vòng hoa đỏ
trên cổ đi ra “Mỏm
đá Trộm Cướp”, nơi
pháp trường
để xử
tử. Phạm
nhân này tên là Satthuka, con trai của
một vị
đại thần
trong triều đình. Vì thuộc
giai cấp cao quý như
vậy, nên hắn
được
miễn những
hình phạt ghê gớm
của những
giai cấp thấp
kém hơn,
như
là bị xiên thủng,
nhận chìm cho chết,
bị chém đầu,
hay bị thiêu sống.
Có lẽ hắn
phạm một
tội gì quan trọng
lắm nên mới
phải bị
xử tử
và không được
hưởng
những hình phạt
nhẹ hơn cho giai cấp
quý tộc, như là phải
trả tiền
phạt hay bị
cạo đầu.
Tuy nhiên, hắn cũng được
gia giảm là cho chết
mà không phải chịu
những cực
hình đau đớn, và có cơ
hội được chấn
chỉnh lại
trong kiếp sau.
Bhadda nhìn vào phạm nhân, nhìn nét mặt điển trai đượm nét tinh ranh và đểu cáng, bỗng bị tiếng sét ái tình đánh thẳng vào tim. Cô gục xuống trên chiếc tràng kỷ êm ấm bằng lụa thêu, ái tình tràn ngập lòng, nằng nặc đòi cha như một đứa con gái nhõng nhẽo quen được cưng chiều vòi vĩnh:
“Cha ơi, con muốn lấy anh ta! Nếu không con sẽ chết mất, con chết mất thôi!”
Lòng
ái dục của
con người
có những lúc thật
ghê gớm, không gì có thể
cứu vãn nổi,
dù là một con người
thánh thiện đã từng
ở cõi trời
nhiều kiếp
trước
đây chăng nữa.
Cha
của Bhadda quá yêu con gái, đến
mức không còn biết
suy nghĩ thiệt hơn.
Thật ra, chắc
ông cũng không thể tin được
rằng Satthuka sẽ
là một người chồng
tốt cho con gái mình, nhưng
tình trạng lúc đó cũng tế
nhị và khó xử
đối với
ông. Ông lý luận, và tự
biện minh rằng,
dù sao thì con gái cũng cần lấy
chồng, và svayamvara - một
thiếu nữ
tự mình chọn
chồng – không phải
là điều hiếm
có trong giai cấp cao quý.
Cô vẫn có thể
có được
một lễ
cưới
theo nghi thức tôn giáo,
và ông không cần phải
lo hồi môn cho cô. Thế
là cha Bhadda dại dột
xiêu lòng. Với chức
vụ trưởng ngân khố
hiện có, ông có đủ
quyền uy để
can thiệp được dễ
dàng và ngăn cản cuộc
xử tử.
Satthuka được
tha bổng, và đám cưới
của hắn
và Bhadda được
diễn ra ngay lập
tức.
Sau
những nghi lễ,
cuối cùng khi chỉ
còn lại hai người
với nhau, Satthuka, lúc ấy
vẫn chưa tin được
vận may đến
cho mình, nói với nàng
Bhadda si tình rằng hắn
phải đi làm một
bổn phận
tâm linh trước
rồi mới
bắt đầu
bổn phận
làm chồng được – đó là trước
đây hắn đã nguyện
với vị
thổ thần
ở mỏm
đá rằng nếu
hắn được sống
sót thì sẽ ra đó cúng dường.
Bhadda bèn sửa soạn
lễ vật
cúng dường,
cùng đi với hắn
ra tận chân mỏm
đá, với một
số người hầu
cận theo tháp tùng.
Đến
nơi
rồi, Satthuka nài nỉ:
“Để mấy
người
hầu ở
dưới
đi, em theo anh lên đó một mình được
rồi.”
Tưởng đó là những lời mật ngọt tình yêu, Bhadda cảm động, đồng ý đi theo hắn lên tận đỉnh mỏm đá trên cao. Khi tới nơi, hắn quay lại nói với cô:
“Con
bò ngớ ngẩn
kia, đưa
cho ta hết mấy
đồ nữ
trang của mi đi!”
Thật
quả con người
Sutthaka quá tham lam và ngu xuẩn, đến
nỗi đã vứt
bỏ cả
một cuộc
sống giầu
sang trong tương
lai để đổi
lấy một
ít nữ trang trong giây phút hiện
tại. Ngay lúc đó, ngọn
lửa ái tình trong Bhadda bỗng
tắt rụi,
ngọn lửa
mong manh như
tình yêu đến đi chớp
nhoáng. Trong giây phút nguy hiểm này, cô chỉ
còn trong tay một chút sáng
suốt, với
ý chí, và một trí óc siêu việt
sẵn có.
Cô
xin hắn: “Trước
khi em chết, hãy cho em đến
ôm anh một lần,
được
không?” Sutthaka nghe vậy,
ngay lúc đó cũng cảm thấy
thích thú trong lòng, bèn ưng
thuận. Bhadda tiến
đến, đưa đôi tay quấn
đầy vòng vàng lên, và đẩy
hắn rơi ngay xuống
vực.
Trong khi Bhadda đứng sững nhìn vào vực sâu phía dưới, nơi Sutthaka đã ngã xuống, vị thổ thần ở mỏm đá hiện ra, ngỏ lời thán phục và khen ngợi trí khôn của cô.
“Đàn ông không phải là lúc nào cũng khôn hơn đàn bà,” vị thần mỉm cười nói. “Khi phụ nữ có đầu óc sáng suốt, họ cũng khôn lắm.” Nhưng lời nói của vị thổ thần không làm cho Bhadda vui, mà chỉ như cắt vào tim, vì đây không phải là sự khôn lanh mà cô muốn dùng đến bao giờ.
Nhân
quả trùng trùng, mỗi
giây phút qua là một nhân mới
được
tạo ra. Dù có giữ
giới đến
20,000 năm, khi nghiệp tới
cũng không thể ngăn được
hành động tạo
tác, hay cản được quả
báo tới.
Một thời gian lâu, Bhadda ngồi lặng người, nghĩ đến những gì chờ đợi trước mắt trong cuộc đời. Cuối cùng, cô tự động cất bước ra đi – xa rời đám người hầu cận, xa rời gia đình, mái nhà thân yêu. Cô vừa đi, vừa nghĩ đến những vị tu sĩ khổ hạnh cô đã thấy trước đây trên đường phố trong những ngày lễ hội, trần trụi, bẩn thỉu, những câu chuyện kể lại về những người nam, người nữ đã bỏ cuộc sống thế gian và bổn phận để đi vào rừng sâu núi thẳm tu hành, không bao giờ trở lại. Họ được mọi người kính trọng và hơi có một chút sợ hãi; họ đã bước ra khỏi định mệnh của cuộc đời và từ đó, đã làm cho người ta cảm nhận được phần nào sự bất trắc của định mệnh trần gian. Baddha cảm thấy như mình đang bị cuốn hút vào một cơn sóng biến chuyển lớn, dường như đã diễn ra từ trước khi cô sinh ra, và không biết còn tiếp tục cho đến lúc nào nữa. Một đợt sóng vĩ đại tràn lên từ tận cùng thế giới cô đã từng biết trước đây, và dâng cao, cao mãi cho đến khi sắp sửa bùng vỡ. Cô tiếp tục đi mãi, cho đến khi gặp được một đám nữ tu đạo Jain. Cô tỏ ý muốn gia nhập với họ.
Họ hỏi: “Muốn tu tới mức nào? Khổ hạnh tới mức nào?”
Bhadda trả lời: “Tới mức cao nhất”.
Thế
là họ lột
hết quần
áo và nữ trang của
cô, rồi đưa cho một
áo trắng dài để
mặc. Khi cô chẳng còn gì,
đi chân đất đứng
trước
mặt họ,
họ dứt
tóc cô ra khỏi đầu,
từng sợi
một cho tới
tận rễ.
Cô
phải nỗ
lực tu để
không còn để ý đến
một điều
gì, không còn sở hữu,
và không còn ước
muốn gì cả
- ngay cả đến
cái chết. Cô không được
có cảm giác vui sướng
hay đau đớn, không hi vọng
cũng không sợ hãi, cũng
không được
trốn tránh đương
đầu với
hiểm nguy hay tìm đến
sự tiện
nghi. Cô không được
xâm hại bất
cứ một
chúng sanh nào đang sống. Những
người
nữ đồng
tu với cô ai nấy
đều khắc
khổ, bẳn
gắt – nhưng
Bhadda không cần phải
có bạn bên cạnh.
Cô chỉ muốn
có một lời
giải thích thỏa
đáng, nhưng
không nhận được gì cả.
Cô bắt đầu
tranh luận với
các bạn đồng
tu đạo Jain, và luôn luôn thắng
thế. Cô đặt
câu hỏi, không ai biết
được
câu trả lời.
Họ còn bảo
cô không cần phải
để ý đến
câu trả lời.
Thế
là Bhaddha bỏ đi, lang
thang một mình khắp
thế giới
trong suốt 50 năm.
Cô
đi chân trần, chỉ
mặc một
chiếc áo. Dần
dần, tóc cô mọc
lại, những
sợi tóc quăn, nên được
người
đời gọi
là Bhadda Kundalakesa – có nghĩa là Bhadda tóc quăn. Cô đi băng ngang nước
Magadha, du hành về phía đông đến
nước
Anga gần biển,
lên phía bắc đến
Vrjji, rồi qua phía tây đến
Kasi, đến thành phố
thủ phủ
Varanasi.
Vừa đi, cô vừa khất thực sống qua ngày, không để ý săn sóc gì đến thân thể; đối với cô thân thể chẳng có nghĩa lý gì cả. Tâm tư cô vẫn luôn luôn xáo động, cố tìm kiếm một điều gì đó đem lại sự an bình nghỉ ngơi. Mỗi khi đến một xóm làng mới, cô dựng một cành cây táo trên một mô đất cát gần ven biên của xóm làng đó. Trẻ con tò mò xúm lại xem – mấy đứa nhỏ ở trần, bẩn thỉu rách rưới, gò má nhô cao trên bộ mặt xương xẩu, đôi mắt đen sâu lõm. Cô bảo chúng đi loan truyền trong xóm rằng ai muốn đến tranh luận với cô thì hãy đến đạp lên cành cây. Mỗi nơi cô đều dừng lại một tuần để chờ người đến. Buổi tối, cô nằm ngủ dưới gốc cây hay trong một cái rãnh nào đó. Nếu không có ai đến, cô lại tiếp tục du hành đi nơi khác. Nhưng nếu có tranh luận, lần nào cô cũng đều thắng thế. Suốt trong những năm tháng trải dài, Bhadda đi tìm kiếm khắp mọi nơi, nhưng không gặp được điều gì làm cho cô có thể tâm phục. Trên thế giới này cô hoàn toàn cô đơn, không lúc nào có được sự bình yên trong tâm.
Khi
Bhadda được
70 tuổi, bộ
mặt nhăn nheo hằn
những vết
đất, thân hình gầy
guộc trơ xương như cành cây khô, bà đến
vườn
Kỳ Viên gần Savatthi. Bà lại
dựng cành cây táo lên, giải
thích cho lũ trẻ nhem nhếch
chung quanh về việc
loan truyền tin muốn
tìm người
tranh luận. Sau đó, bà bỏ đi vào làng
khất thực.
Lúc đó, Xá Lợi Phất, đại đệ tử trưởng lão của Đức Phật Thích Ca, đang đi tản bộ ở ven làng, bỗng thấy cành cây. Họ vừa mới an cư trong khu vườn mấy ngày, bây giờ đi ra ngoài đã thấy chuyện lạ. Khi nghe thằng bé mặt mũi lem luốc hăng hái kể lại về ý nghĩa của cành cây này, tôn giả bỗng thấy hứng thú, bèn bảo thằng bé:
“Đạp đổ cành cây ấy cho ta!”
Thằng
nhỏ vui mừng
đạp cành cây xuống,
đang lúc cát đá văng ra tùm lum, Bhadda trở
về.
Trong
những ngày phiêu du Bhadda cũng đã có
lần gặp
gỡ một
số đệ
tử của
Phật Thích Ca, vị
hoàng tử nổi
tiếng đã bỏ
cung vàng điện ngọc
để đi tu, nhưng
lạ một
điều là mấy
người
đó đều không muốn
tranh cãi. Vì vậy,
khi đứa trẻ
nói với bà người
hạ cành cây xuống
là Xá Lợi Phất,
người
nổi tiếng
biện tài, bà rất
đỗi vui mừng.
Bhadda
từ từ
đi đến nơi các vị
tăng đang tụ tập.
Bà ngạc nhiên trước
sự đông đảo
của họ
- cả trăm người
nam nữ đang quay quần
trên những thảm
cỏ xanh dưới
bóng cây xoài và cây cọ dừa.
Họ ăn mặc
giản dị,
chân cũng đi đất như
bà, đầu cạo
trọc. Điều
đập vào mắt
bà là trông họ thật
nhẹ nhàng yên ổn,
dù đang ở trong một
nhóm đông đảo như vậy.
Các vị tăng chăm chú theo dõi Bhadda đến gần Xá Lợi Phất dưới gốc cây, và khi họ đã ngồi xuống yên chỗ, đám đông bu quanh lại. Ngay lập tức Bhadda bắn ra những câu hỏi, thăm dò kiến thức của vị đại đệ tử danh tiếng. Bà hỏi ngài những điều trừu tượng như bản tánh của ngã, làm sao tiên đoán được tương lai, cách chuyển hóa cái ác, làm sao giao cảm được với những thần linh tiềm ẩn trong trời đất, và cái gì là sự thường hằng của Bhadda v.v..
Tôn giả trả lời từng câu một, với lý luận rành mạch của trí tuệ sáng suốt, trong sự điềm tĩnh, không phô trương. Ngài nhắc lại những câu truyện giản dị Đức Phật thường kể để làm rõ nghĩa , vẽ lên một bức tranh đời sống trong cái nhìn trung đạo, đón nhận sự tấn công mà không cần phản ứng đáp trả. Lần đầu tiên trong hơn 50 năm Bhadda không thể thắng thế. Bà không thấy có mục tiêu nào để đánh thắng được. Cuối cùng, bà bực bội nói:
“Thôi được rồi, bây giờ đến phiên ngài hỏi tôi xem nào?”
Xá
Lợi Phất
là một người đầy
đủ trí tuệ,
ngài thấy rõ Bhadda, một
con người
cô đơn
khắc khoải,
suốt đời
đi tìm kiếm trong kiến
thức một
câu trả lời
tối thượng mà kiến
thức không thể
đem đến được. Và bên
trong con người
khắc khoải
ấy là một
tâm trí sắc bén, một
nỗi đam mê, một
ý chí quyết liệt.
“Cái
gì là Nhất Như?” Xá Lợi
Phất buông ra câu hỏi,
đưa
tay phác một nét bâng quơ.
Bhadda
biết về
Vệ Đà, về
chân ngã tiểu ngã, về
phạm thiên, linh hồn
v..v… nhưng
tất cả
chỉ là những
ý niệm trừu
tượng
và mơ
hồ, bà không thể
nói lên được
gì. Cuối cùng bà chịu
thua, không thể trả
lời được.
Nhưng
cùng lúc ấy, trong giây phút đầu
óc trống rỗng,
dứt bặt
những suy tư
lý luận, Bhadda bỗng
chín tới như một
trái táo chín ngọt ngào. Bao
lâu nay, bà đã bỏ ra suốt
một đời
để tìm kiếm
điều gì đây? Trong tất
cả những
năm tháng ấy, tất
cả những
điều bà thu thập
được
chỉ là những
tên gọi. Hàng ngàn, hàng vạn
ngôn từ,
tên gọi, để
tìm cách giải thích những
điều bí ẩn
trong đời sống.
Nhưng
ngôn từ hữu
hạn không thể
nào đem ra để định
nghĩa hay đặt tên cho bản
chất vô biên vô hạn
của đời
sống. Trước
mặt Xá Lợi
Phất, Bhadda quỳ gục xuống
- lần
đầu tiên trong đời,
kể từ
lúc nhỏ cho đến
lúc già, bà đã biết quy phục.
“Con xin quy y theo Ngài – xin ngài thu nhận con vào tăng đoàn tu tập.”
Xá
Lợi Phất
trả lời:
“Không, đừng quy y theo ta, hãy quy y với Đức Thế Tôn. Tối nay, bà đến ngay tịnh xá xin yết kiến Ngài đi.”
Trong
khi nghe Xá Lợi Phất
nói, Bhadda đê đầu
đảnh lễ
sát đất. Tôn giả
cũng cúi đầu xuống
kề sát bên mái tóc quăn bạc
mầu của
bà. Cuộc tranh luận
đã chấm dứt
– chỉ còn lại
tinh thần thân mật,
không thua, không thắng.
Đợi
đến tối,
Bhadda mới đi đến
tịnh xá. Bhaddha con người
tranh luận hơn thua của
ngày xưa
đã chết, nhưng Bhadda mới
vẫn chưa sinh ra. Trong sự
bình thản lạ
thường,
bà chờ đợi
sự xuất
hiện của
con người
mới này. Nhìn xuống
thân thể của
mình, lần đầu
tiên bà để ý thấy
đôi bàn chân cáu bẩn, chiếc
áo lấm lem nhầu
nát, những móng tay dính đất
đen đủi, và quyết
định đi xuống
sông tắm.
Đêm
xuống trên vườn
Kỳ Viên, những vị
tăng bắt đầu
vân tập chung quanh Đức
Phật, nghe ngài nói Pháp. Đức
Phật nói chuyện
một cách tự
nhiên, những tiếng
nói đi sâu vào lòng người,
như
không có sự cách biệt
giữa người nói và người
nghe. Bhadda, lẩn khuất
giữa những
vị tăng, trong vô thức
bỗng cảm
thấy như đang bị
cuốn hút đến
ngài, giống như ngài đang có một
cuộn dây cuốn
tròn bà đến với
ngài vậy. Và rồi bà đứng
trước
mặt ngài. Bốn
mắt nhìn nhau – và Bhadda cảm
thấy sự
giao cảm với
Đức Phật,
như
hai người
bạn cũ gặp
lại nhau vậy.
Đức Phật nói, rất nhẹ nhàng:
“Kiến thức học hỏi hàng ngàn hàng vạn quyển cũng không bằng chỉ một câu nói đem lại sự bình an.”
Ai
biết ngọn
gió nào làm nở bừng
đóa hoa? Đóa hoa Bhadda này đã kết nụ
từ khi cây chỉ
mới gieo hạt
giống, và sẽ
còn tiếp tục
nở hoa cho đến
khi cây trở về
với cát bụi. Nhưng trong giây phút ấy,
cánh hoa cuối cùng đã mở
ra với trời
và đất, hoàn toàn mở
rộng từ
nụ cho đến
hoa, trái, cây, hạt giống.
Bhadda đã tỉnh giác, không có biên giới
trong ngoài.
Đức Phật đưa tay ra nói:
“Bhadda, hãy đến đây!”
Trong
tất cả
những vị
ni đã thọ giới,
duy chỉ có Bhadda là được
thọ giới
từ chính tay Đức
Phật. Bà được
nổi tiếng
mãi mãi về trí tuệ
lanh lẹ và sắc
sảo. Nhưng chúng ta đều
biết cũng như
bà, rằng bà còn có một
thời gian dài trước
mặt để
cảm nghiệm
những điều
đã chứng ngộ.
Bà rời khỏi
vườn
Kỳ Viên, và suốt cuộc
đời về
sau, trong một thời
gian rất dài, đã đi lang thang bốn
phương
trời. Bà đi trong cuộc
đời như đi dạo
chơi,
một bóng hình cô độc
nhưng
không bao giờ cô đơn,
bởi vì đã hòa nhập
làm một với
vũ trụ.
Ngọc Bảo
(trích Danh Ni Truyện)