CÕI TIÊN, CÕI TỤC - BS Nguyễn văn Thọ

01 Tháng Giêng 201212:00 SA(Xem: 107368)



Cõi Tiên, Cõi Tục


Nguyễn văn Thọ

 

 

phongthuy


Nhiều năm trước đây, khoảng đầu thập niên 1990, tôi được đọc bài "Cõi Tiên, Cõi Tục" của BS Nguyễn văn Thọ trong một tạp chí ấn bản ở San Diego và rất lấy làm tâm đắc, nên đã cắt riêng ra để dành. Lúc ấy, tôi còn hiểu biết rất mơ hồ về Phật Pháp cũng như các tôn giáo khác trong lãnh vực tâm linh. Sau này, tôi có cơ duyên được gặp BS Thọ và viếng thăm ông tại nhà riêng. Ông là một học giả uyên bác, thích tìm hiểu những truyền thống đạo giáo cả Đông lẫn Tây, đặc biệt là thông thạo chữ Hán nên rất am tường về Dịch Lý cũng như về Đạo của Lão Tử. Ông cũng đã xuất bản một số sách về những nghiên cứu của mình.


Thời gian trôi qua, bao vật đổi sao dời, đọc lại bài báo cũ mà nhớ tới người xưa. Dù ở đâu, trong cõi thế này hay một cõi nào khác, hi vọng là tác giả "Cõi Tiên, Cõi Tục" cũng đang sống được trong Cõi Tiên của chính mình.


NB



Xưa nay ai ai cũng ước mong thoát tục, thành tiên. Ở bên Tầu, cũng như ở bên ta, đã có nhiều giai thoại ghi lại chuyện những người đã có duyên lạc vào tiên cảnh, như Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai, Từ Thức nhập cảnh tiên ở Tiên Du, Bắc Ninh v.v..


Và cứ theo tầm nhìn, lối nghĩ thông thường, thì cuộc sống mà chúng ta đang sống là cảnh hồng trần lầm than, là bến mê, bể khổ, còn cảnh Bồng Lai, cảnh Thiên Đàng xin đợi tới lai sinh.


Nhưng càng đọc các sách vở mà người xưa lưu lại, càng suy tư về những đời sống các danh nhân danh sĩ mà sử sách đã lưu lại, càng sống chân thật với đời sống tâm linh của mình, con người càng ngày càng thấy cảnh thần tiên thực ra chẳng hề lìa xa con người, mà hằng lẩn trong cuộc đời mỗi con người , như hình với bóng.


Tôi từ tấm bé, đã nghe tường thuật lại có những người được diễm phúc bạch nhật thăng thiên: bên Thiên Chúa Giáo thì có Chúa Jesus, Đức Mẹ Maria; bên Lão giáo thì có vô số. Sách Tinh Mệnh Khuê Chi, nơi cuối tập I, đã cho biết là từ trước đến nay đạo Lão đã có tất cả hơn 10,000 vị tiên lên trời giữa ban ngày, người thì cưỡi rồng, người thì cưỡi hạc, người thì cưỡi cá, người thì cưỡi gió lên tiên. Trong số đó, còn có 8,000 vị tiên lên trời với cả nhà cửa. Nếu lên tiên, lên trời cao sang như vậy, mà còn phải đem cả nhà cửa đồ đạc lên theo, thì chúng ta phải suy ra rằng lên tiên, lên trời như vậy, đại loại cũng như đi “kinh tế mới” ngày nay. Chính vì thế mà các vị tiên ông đã quan phòng mang cả đồ đạc, nhà cửa theo để sau này khỏi phải lâm cảnh thiếu thốn.


Tôi cũng đọc rất kỹ thăng thiên ra sao, nhưng vấn đề “Bạch nhật thăng thiên” trong suốt thời niên thiếu, đối với tôi vẫn là một kỳ bí.


Nơi đây tôi không trình bầy cùng quý vị những suy nghĩ riêng tư của tôi về vấn đề trên, mà chỉ muốn nói lên rằng những thắc mắc của tôi may thay đã được giải tỏa. Thực vậy, năm 1960, tôi đọc thấy trong quyển La Religion Essentielle của Illan de Casa Fuerte, những lời đẹp đẽ như sau:


“Trời ở trong mỗi người chúng ta chứ không ở ngoài chúng ta.’

“Trời ở trong con người.”

“Lên cùng Chúa là đi vào tâm khảm mình. Ai vào được tới tâm khảm mình, sẽ vượt kiếp người, và đạt tới Chúa”.


Trở về với Phúc Âm, tôi thấy câu: “Nước trời ở trong an hem” (Luke 17:21) thật là chí lý.


Cho nên, từ mấy chục năm nay, tôi vẫn tin rằng cõi trời, cõi tiên đã có sẵn ngay trong lòng mỗi người. Và như vậy câu chuyện “Bạch nhật thăng thiên” hay câu “Thiên đường hữu lộ” đối với tôi không còn gì gọi là huyền bí nữa. Vả lại tôi mừng vì thấy rằng chuyện “bạch nhật thăng thiên” không còn là chuyện khó, vì đã ở ngay trong tầm tay mỗi người.



Trở lại đạo Lão, tôi thấy tất cả những lời dạy dỗ trở nên hết sức sáng sủa, sau khi huyền thoại trên đã được giải thích một cách thỏa đáng.


Thất Chân Nhân quả có thơ:


“Thân ngoại cầu tiên, lộ tựu soa,

Thủy trung nguyệt ảnh, kính trung hoa

Tiên thiên diệu lý, quân vi phủ?

Chỉ tại nhất tâm, tiện khả khoa”


Dịch:


Thân ngoại cầu tiên , đi lạc đường

Mò trăng đáy nước, hái hoa gương

Tiên thiên, diệu lý hay chăng tá

Chỉ tại tâm điền, há viễn phương


 

Trong Tiên học diệu tuyển có ghi câu thơ của Mã Đơn Dương tặng Triệu Quang:


“Thành tiên chỉ thị Thần quang,

Thiên cung vô dụng xá bì nang”


Dịch:


“Thành tiên âu chỉ cốt Thần quang

Thiên cung xá kể cái xác phàm!”


 

Như vậy, con người sở dĩ bị đọa lạc trong trần ai tục lụy chính là vì đã dốc tâm, chú ý vào những công chuyện mưu sinh bên ngoài, tưởng mình chỉ sống có một đời xốc nổi, phù phiếm, ích kỷ, riêng rẽ, mà quên mất rằng cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần, mới thật là cao cả. Ăn cháo lú, tức là vùi mình vào trong những thú vui nhục dục, nhãn tiền mà quên khuấy rằng mình là một thành phần của đại thể vô biên trong vũ trụ quần sinh. Tưởng rằng mình là một cái gì tách khỏi Đại thể vô biên chính là một sự ngu si hết sức lớn lao, và chính là nguyên nhân khiến mình bị đọa lạc vào trong vòng trần ai tục lụy.


Xét về xác chất hình hài, thì thân phận con người hết sức là lao lung, chán chường, hết sức phù du hư ảo, nhưng nếu xét về Thần Thiêng trong con người, thì con người lại mênh mông vĩnh cửu. Thần con người, và Thần Trời Đất là một, nên Thần con người cũng như Thần trời đất không lệ thuộc không gian, thời gian, và vĩnh cửu, miên trường.


Thần là thế giới của Nhất Thể vô biên tế. Nếu thật sự chúng ta muốn đạt tới hạnh phúc, tới Chân, Thiện, Mỹ, tới hòa hài, bác ái, chúng ta phải nhập Thần, phải sống trong thế giới của Nhất Thể đó. Đó chính là Bồng Lai, Tiên Cảnh, mà người đời thường mô tả.


Nói tóm lại, cho dù ta gọi Đại Thể là Thần, là Thượng Đế, là Bản Thể, Brahman, hay gì gì chăng nữa, điều đó không quan trọng. Quan trọng nhất là không bao giờ chúng ta nên nghĩ rằng chúng ta có thể sống tách rời khỏi Đại Thể ấy, dù là một phút giây.


Nói cách khác, cái con người phiến diện, có tên, có tuổi, có hồ sơ lý lịch, có quốc gia, quốc tịch của chúng ta chỉ là một sản phẩm của lịch sử và địa dư, nhưng con người thâm sâu trong chúng ta vốn không phải vậy, nó đã có từ trước như trời với đất.


Thường thường chúng ta chỉ sống bằng con người phiến diện chính là vì xã hội, văn hóa, tập tục truyền thống đã dạy chúng ta những điều tai hại đó. Cái mênh mông, sang cả, cái huy hoàng muôn thuở của chúng ta, đôi khi chúng ta chỉ cảm giác thấy một phần nào, ví dụ như trong những lúc mơ màng, nửa tỉnh nửa say, lúc mơ mộng hay bị ảnh hưởng của các thứ thuốc khải thần (psychedelics: LSD< Mescaline, Peyote, Hashish v.v..) hay của men rượu, men tình…


Albert Einstein cũng đã nhận định như sau:


“Con người là một phần của toàn thể mà ta gọi là “vũ trụ”, một phần bị hạn hẹp trong không gian và thời gian. Con người chiêm nghiệm về mình, về những suy tư, niệm lự, tình cảm của mình như thể là cái gì tách khỏi mọi sự: đó là một ảo tưởng do tâm thức sinh ra. Ảo tưởng đó chính là một nhà tù đối với chúng ta, nó giới hạn ta trong phạm vi của những dục vọng riêng tư, của một tình thương dành cho ít người thân thuộc quanh ta. Ta phải giải thoát ra khỏi nhà tù đó, bằng cách mở rộng lòng từ bi đối với tất cả quần sinh, cùng bao quát hết cả vũ trụ với những nét đẹp của nó. Không ai có thể làm chuyện này được rốt ráo, hoàn toàn, nhưng nếu cố gắng thực hiện nó, đó chính là chúng ta được giải thoát phần nào và đã xây đắp nền tảng cho sự an ổn trong nội tâm chúng ta.”


Edgar Cayce, một dị nhân người Mỹ chuyên môn chữa bệnh, soi kiếp và nói tiên tri khi ngủ thiếp đi, cũng cho rằng con người có hai phương diện vô cùng và hữu hạn. Con người hữu hạn hay tiểu ngã, ông gọi là Individuality. Muốn đạt tới thần thông, thần lực, mà ông gọi là Psychic force, cái tiểu ngã cần phải tan biến đi. Bao lâu còn lý luận theo tiểu ngã, thì Đại Ngã không giúp chúng ta được. Muốn hòa hợp được với vô cùng, ta phải giảm thiểu đến mức tối đa cái tiểu ngã của chúng ta, để chỉ còn thuần cái “Tinh Hoa Trời”. Chừng đó, Thượng Đế mới rải sáng ra trong đời chúng ta, và chúng ta mới trở thành hiện thân của Ngài. Như vậy, rời cảnh tiên, đọa lạc và hồng trần tục lụy, chẳng qua chỉ là quá lo phục vụ, bồi dưỡng cho cái tiểu ngã đó mà thôi.


Nho gia cũng nói như sau: Nhân dục thắng, Thiên lý vong.. Nhân dục tận, Thiên lý hiện… cho nên, chúng ta càng ngày càng thấy rõ ràng: Sống ở cảnh tiên chính là sống vô kỷ, vô công, vô danh, sống kết hợp với Đại Ngã, với Thượng Đế. Sống trong cảnh tục là sống bằng thất tình lục dục, tiểu trí, tiểu ngã của mình, sống xa lìa với Trời với Đạo.


Trong quyển Thái Thượng Bảo Phiệt của Đạo Lão cũng có một câu bất hủ:


Tâm dữ Đạo hợp tắc tạo Bồng Lai, Tam Đảo

Tâm dữ Đạo lý, tắc tạo lục đạo, tam đồ

 

Dịch:


Lòng người hợp với lòng Trời,

Bồng Lai, Tam Đảo tức thời hiện ra.

Lòng người lòng đạo lìa xa

Tam đồ lục đạo, phôi pha, khốn nàn.


 

Quần chúng xưa nay vẫn thắc mắc, vẫn tiếc xót về Địa Đàng đã mất, luôn luôn mơ ước một cảnh Đào Nguyên, một cảnh Thiên Thai, hay Bồng Lai, Tam Đảo, hay Duyềnh Châu, Phương Trượng ở những khung trời xa lạ, chứ không bao giờ lại ngờ được rằng những cảnh thần tiên đó không ở đâu xa, nhưng đã ở sẵn ngay trong tâm khảm mình. Khi đã mất phương hướng, khi đã không có tâm bản đồ hướng đạo, dĩ nhiên sẽ không bao giờ đặt được vấn đề cho đứng đắn, hẳn hoi, và không bao giờ chứng nghiệm được hạnh phúc thực sự.


Heraclitus nói: “Nếu ta không ngờ được rằng có cái bất ngờ, ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nó.”


Có lẽ chính vì vậy mà con người luôn luôn khắc khoải, luôn luôn khát khao như thể đã mất đi một cái gì. Các đạo giáo công truyền tưởng chừng như đã đến với con người để đáp ứng nhu cầu ấy, và trả lại cho con người cái mất mát ấy. Nhưng ngược lại, theo nhận định của Erich Fromm, tác giả quyển Psychoanalysis & Religion, thì các đạo giáo công truyền lại càng làm cho giá trị con người thêm mất mát đi, làm cho thân phận con người thêm hèn yếu đi, lệ thuộc hơn, vì bao cái hay, cái đẹp đều dồn cả cho Thượng Đế ngoại tại.


Còn những chân nhân mà nhân loại thường tặng dữ cho những danh hiệu thánh, hiền, tiên, phật là những người đã tìm ra chân lý, đại đạo, cái phần cao minh, linh diệu của con người. Họ sinh ra đời cốt là để tìm lại cái giá trị vĩnh cửu, cao đại của một con người. Họ khuyến cáo mọi người nên dùng thần trí mình để hiểu biết về mình, về tương quan giữa mình với tha nhân và vũ trụ. Họ thấy con người có khả năng vô biên vô tận, cần phải triệt để khai thác. Họ cảm thấy mình và vũ trụ là một, và chính vì vậy phải sống trong tình thương mến, hài hòa, và sự liên đới cộng tác với quần sinh.


Một số chân nhân đã sống thoát vòng không gian, thời gian, và thấy đời sống mình gắn liền với đời sống quần sinh, vũ trụ ngay từ khi còn ở trần gian này. Trang Tử đã viết trong Nam Hoa Kinh:


Thiên địa dữ ngã tịnh sinh,

Nhi vạn vật dữ ngã vi nhất

 

Dịch:


Ta và trời đất cùng sinh,

Ta và muôn vật sự tình chẳng hai

 

Từ Viên tiên sư viết:


“Đương thời vị hữu tinh hà đẩu,

Tiên hữu ngô, đương hậu hữu thiên”.

 

Dịch:


Trước khi Thiên Hán, quần tinh có

Trước có Ta, sau mới có Trời..

 

Và:


“Ngã thể bản đồng thiên địa lão,

Tu Di sơn đảo, tính do tồn.”

 

Dịch:


“Tính ta vốn thọ cùng trời đất

Tu Di nghiêng đổ, Tính vẫn còn..”



 Cái phần mênh mông, cao đại, linh thiêng sang cả của con người ấy, oái oăm thay, rất ít người nhận ra được.


Tuy nhiên, con người ai ai cũng có nửa tiên, nửa tục. Tiên và tục lúc nào cũng chung sống với nhau trong cái thế cài răng lược. Tiên là lý tưởng; Tục là thực tế. Cái thực tế là cái mặt lam lũ, lầm than, cơ khổ của con người; cái lý tưởng là những gì văn minh, lịch sự, là những phút giây sung sướng trong những ngày tư tết, hội hè. Con người lúc nào cũng mơ lý tưởng, mà lúc làm thì lại làm chuyện thực tế phũ phàng. Khi con người làm cách mạng, thì hứa trăm điều; lúc lên cầm quyền, thì không thực thi được một. Thành thử dân gian đã có câu: “Cách mạng, cách miệng”..


Cho nên, muốn hiểu con người cần phải nhìn thấy hai chiều, hai mặt của nó. Sống động thì trong hữu hạn, mà mơ ước thì vô biên. Sống động trong không gian, thời gian, mà lúc nào cũng bàn về vĩnh cửu.


Hai chiều hai mặt ấy sở dĩ có, chính là vì dưới lớp lang thể xác, nhân tâm, con người còn có Thiên Tâm, Thiên Tính, còn có đồng bản thể với Thượng Đế.


Đàn cơ Cao Đài có mấy vần thơ hết sức bất hủ:


Con là đấng thiêng liêng tại thế,

Cùng với Thầy, đồng thể Linh Quang

Khóa chìa con đã sẵn sàng

Khi vào cõi Tục, khi sang Thiên Đình

 


Thực là dễ dàng: hướng ngoại, đi ra ngoại cảnh vật chất, là đi vào cõi tục; hướng nội, đi vào tâm khảm, là đi lên tiên cảnh, đi lên Thiên Đình..


Tiên hay Tục chẳng qua là thay đổi tầm nhìn, lối nghĩ, thay đổi tâm trạng..


Tiên là thế giới của hiệp hòa, của Nhất Thể: Nhất tức Nhất Thiết, Nhất Thiết Tức Nhất = Một là Tất Cả; Tất Cả là Một.


Tục là thế giới của chia ly, riêng rẽ, phân tán, loạn ly, là thế giới của Vạn, của Vạn Thù.


Ý Thức nếu đã được thay đổi (tiếng Anh gọi là Altered state of consciousness), lập tức sẽ có một sự hiểu biết khác.



Meister Eckhardt viết:


“Khi nào con người ở trong hiểu biết thông thường? Tôi xin trả lời: “Khi con người thấy cái này khác với cái kia.” Và khi nào con người vượt trội lên cái hiểu biết thông thường? Tôi có thể nói như sau: “Khi con người nhìn thấy TẤT CẢ trong tất cả, lúc ấy con người vượt lên trên sự hiểu biết thông thường.”



Khi viết về cõi Tiên, cõi Tục, tôi ngẫu nhiên đọc quyển Psychoanalysis and Religion của Erich Fromm. Trong quyển sách nhỏ ấy Erich Fromm phân biệt ra 2 thứ đạo giáo. Một thứ đạo giáo dùng quyền uy áp đặt lên con người mà ông gọi là Authoritarian Religion, một thứ đạo giáo phát sinh từ nhân bản con người mà ông gọi là Humanistic Religion. Đạo dùng quyền uy áp đặt lên con người là “Đạo Tục”, còn đạo phát sinh từ nhân bản là “Đạo Tiên”. Gọi là “Đạo Tục” vì dành cho quần chúng đang thực sự lao đao, lận đận trong cõi hồng trần “tục lụy” này; còn “Đạo Tiên” là thứ đạo cho một thiểu số tao nhân, mặc khách tuy xác còn đang sống ở trần hoàn, mà tâm hồn đã khinh phiêu thoát sáo. Và tôi tóm lược ý của Erich Fromm khi luận về “Đạo Tiên, Đạo Tục” như sau:


Tiên Tục là hai khía cạnh thấy được trong các đạo giáo thiên hạ, có khi tách rời, nhưng cũng có khi hiện ra song song trong cùng một tôn giáo.


“Đạo Tục” dành cho quảng đại quần chúng. Đặc điểm của đạo này là tin rằng Thượng Đế là ở ngoài, tách rời khỏi con người. Bao nhiêu cái hay, cái đẹp, bao nhiêu tình thương, bao nhiêu công bằng, bác ái, tất cả quyền uy, năng lực nơi con người đều dồn cả cho Thượng Đế. Thành ra Thượng Đế càng uy nghi, sang cả, quyền hành bao nhiêu, thì con người càng hèn yếu, càng tội lỗi bấy nhiêu. Con người như vậy phải sợ hãi, phải tuyệt đối phục tùng, lệ thuộc vào Thượng Đế. Vì đem tất cả tinh hoa của mình dồn cho Thượng Đế nên con người càng ngày càng xa cách với Thượng Đế, càng bị “tha hóa” đối với chính mình…


“Đạo Tiên” là thứ đạo chủ trương rằng nếu con người là ảnh tượng Chúa, thì trên căn bản, phải đồng nhất, phải nhất như với Thượng Đế. Và Thượng Đế sẽ không còn là biểu tượng của một uy quyền trên con người, nhưng sẽ là biểu tượng cho quyền uy của chính con người. Như vậy Thượng Đế chẳng khác nào như là Đại Ngã của con người, và là Lý tưởng để con người vươn lên và thực hiện. Đạo Tiên có mục đích làm cho con người trở nên lớn mạnh, trở nên hào hùng, tự do, hạnh phúc, đó là hậu quả của lòng từ bi bác ái. Ngược lại, những hình thức đạo giáo chỉ chú trọng dạy con người tùng phục quyền uy, mà không xót thương cho thân phận con người, không kính trọng con người, làm cản trở không cho các tiềm năng tiềm lực trong con người được phát huy, chỉ chú trọng đến kiểm soát và thống trị con người, thì chắc không thể phát xuất từ lòng từ bi bác ái đối với con người được. Như vậy chẳng qua là Đạo Tục.


Nói tóm lại, con người sống trong hai thế giới NHẤT và VẠN.


Sống trong thế giới của VẠN là sống trong thế giới đa tạp, chi li, cái này kình địch với cái kia, cái kia thù hằn với cái nọ, đó là CÕI TỤC. Sống trong thế giới của NHẤT là thế giới của thuần nhất, bất phân, xướng tủy, hòa hợp, đó là thế giới của CÕI TIÊN.


Hai thế giới đó thường được mô tả như là Trùng Dương (Nhất) và Ba Lãng (Vạn). Người thường nhìn thấy sóng là sóng, thấy biển là biển. Người thấu thị thấy biển với sóng là một.


Nếu ta có cái nhìn phân biệt, thì Thượng Đế là vị thần linh thống trị ta; thế giới ngoại cảnh, sinh linh là những gì xa cách với ta. Ngược lại nếu ta có cái nhìn vô phân biệt, thì Thượng Đế chính là Bản Thể của ta, là Lý Tưởng của ta; ta và sinh linh là một.


Ta có thể dùng từ ngữ của Frank Loehr, mà gọi hạng người thứ nhất là God Beyonders (Thiên tại thượng); hạng người thứ hai là God Withiners (Thiên tại nội).


Tín đồ các tôn giáo công truyền thuộc hạng 1; các tiên thánh trong thiên hạ thuộc hạng 2. Đúng hay sai, chiêm nghiệm vào chính bản thân, ta sẽ thấy.


Trang Tử viết:


Nhìn vũ trụ từ trong phân biệt,

Thời mật gan, Sở Việt cách xa.

Từ trong Đồng Nhất nhìn ra,

Muôn loài muôn vật cũng là một thôi.

 


Cõi tiên tức là cõi của Đồng Nhất, tức là cõi của Tâm Linh. Cõi Tâm Linh tuy ở ngay trong tâm hồn chúng ta, nhưng lại vượt lên trên thất tình lục dục, suy tư niệm lự.


Ta có thể dùng từ ngữ của Miller mà gọi cõi tiên là The Divine, cõi tục là The Natural. Lawrence LeShan gọi cõi tiên là The Clairvoyant Reality, cõi tục là The Sensory Reality.


Ta sống trong cõi tục bằng Ngũ Quan, bằng cảm giác, bằng Tâm Tư, Trí Lự. Ta sống trong cõi tiên bằng Thần Linh, bằng Tuệ Giác, bằng sự Hồn Nhiên, Thoát Khuôn Sáo.


Khi còn sống trong tuần hoàn này, nếu không có Tục không thể có Tiên. Tiên mà đói khát, bệnh tật, dơ bẩn, tiên mà còn chưa giải quyết được vấn đề cơm áo, vấn đề nhân sinh thì dĩ nhiên chưa phải là Tiên.


Chính vì thế mà xưa Đạo Lão đưa ra bốn điều kiện để TU TIÊN: Pháp, Địa, Lữ, Tài.


Pháp là nắm được Khẩu quyết, được bí chỉ Thành Tiên.


Địa là sống trong một hoàn cảnh vật chất thanh kỳ: sơn thanh, thủy tú.


Lữ là có những người đồng chí, đồng thanh, đồng khí.


Tài là có đủ tiền để cung cấp mọi nhu cầu vật chất.


Cho nên sống tiên là sống thanh cao, biết xử dụng tiền tài, ngoại cảnh cho hay cho phải, chứ không phải sống nghèo hèn, cơ cực.



Á Đông chính vì thế mà đề cao TRI TÚC. TRI TÚC là làm thế nào để sống ấm no, đầy đủ thì thôi. Mục đích cuộc đời là sống thanh sảng, tiêu sái, thanh cao, lý tưởng, hài hòa, chứ không phải để chạy theo tiền tài, danh vọng.


Cái tuyệt vời mà cả Đông Tây đều muốn vươn tới chính là một cuộc sống NHÂN ÁI, HÀI HÒA. Nhân Ái đây phải hiểu là LOVE; Hài Hòa phải hiểu là HARMONY, hay JUSTICE. Mãi đến cuối cuộc đờ, tôi mới hiểu chân nghĩa của JUSTICE, mà người ta thường hiểu là CÔNG BÌNH, CÔNG CHÍNH. Tôi bây giờ mới thấy rằng JUSTICE chính là HARMONY, là sự QUÂN BÌNH, sự HÀI HÒA trong vũ trụ quần sinh. Nói theo Dịch, JUSTICE chính là KÝ TẾ, là THÁI HÒA.


Đã đành vào được cảnh tiên không phải là dễ, nhưng nó cũng không phải là quá khó. Theo tôi, khẩu quyết trước hết là con người không thể nào tách rời được khỏi Đại Thể - dẫu ta gọi Đại Thể đó là Chúa, là Phật tính, là Chân Như, hay Atman, Đạo hay Brahma – cũng không thể nào tách rời khỏi vũ trụ quần sinh.


Thứ hai, bản tính ta hay bản tính Chúa cũng chỉ là một. Giữa ta và Chúa là TÌNH YÊU tuyệt vời, chính vì vậy, tuyệt đối không được SỢ HÃI Ngài.


Ta sinh ra đời cốt là để thi triển mọi khả năng thiên phú của chúng ta, làm cho đời thêm đẹp thêm tươi.


Đối với đồng loại, đối với quần sinh, ta phải thương yêu vô hạn.


Thay vì nhìn đời dưới khía cạnh “TƯƠNG KHẮC, TƯƠNG CHẾ”, hãy nhìn đời dưới khía cạnh “TƯƠNG DUNG, TƯƠNG THỪA”.


Hãy sống hồn nhiên như trẻ thơ.


Cái gì làm cho ta mất hạnh phúc, mất sự bình thản tâm hồn, mất phẩm giá con người, đó chính là những họa hại, ta cần phải trừ diệt cho ta và cho người.


Cái gì thuộc hình hài, ngoại cảnh, đều là những gì biến thiên, nhất thời. Chính vì vậy mà ta đừng đặt nặng chuyện mất còn. Tâm linh quang minh, chính đại, hào sảng, thanh khiết mới là điều đáng chắt chiu.


Tất cả thánh hiền tiên phật đông tây đều đã thuộc chủ trương như vậy.


Nếu ta nhận chân rằng cảnh tục là cảnh bên ngoài, cảnh tiên là hạnh phúc tâm linh bên trong, ta sẽ nắm vững được then chốt của Tiên và Tục; có được chìa khóa của cõi Tiên và cõi Tục.


Nhiều người cứ tưởng rằng tiên thánh phải làm được phép lạ mới là tiên thánh. Họ có biết đâu rằng phép lạ là của những thầy phù thủy, pháp sư. Còn tiên thánh giáng phàm chỉ dạy người sống sao cho hạnh phúc, sống sao cho hài hòa trong tình huynh đệ, thủ túc với tha nhân, với quần sinh. Có vậy thôi.


Nếu quý vị thấy vào cõi tiên ngay thì cũng khó, mà ở hoàn toàn trong cõi tục thì cũng không nên. Nếu quý vị thấy lý luận, suy tư quá sẽ nhức đầu, tôi xin tặng quý vị bài thơ của Lý Mật Am, nhan đề là “Bán bán ca”, mà Lâm Ngữ Đường đã giới thiệu trong quyển “L’importance de vivre”. Ông cho rằng đó là Đạo Trung Dung của Khổng Tử! Tôi không đồng ý như vậy, và cho rằng đấy chỉ là một lối sống nửa tiên, nửa tục! Bài thơ hết sức “dí dỏm” và tài tình.


Năm 1960, tôi đã dịch ra tiếng Việt, nhân khi bàn về “Một nhân sinh quan theo Trung Dung và Dịch Lý”, đăng trong Đặc san Cổ Học Tinh Hoa Quảng Nam. Nơi đây, tôi sao chép lại để cống hiến quý vị, và đặt tên nó là “Bài ca nửa tiên, nửa tục”:


Ta sống quá nửa đời phù phiếm

Mới nhận ra huyền nhiệm Trung Dung

Trung Dung hương vị khôn cùng

Làm cho lòng dạ tưng bừng niềm vui

Lúc mà cái con người sướng nhất

Chính là khi tới cấp trung niên

Quang hoa dùng dắng triền miên

Như chờ, như đợi gót tiên tạm ngừng

Cõi trần lọt giữa chừng trời đất,

Giữa tỉnh quê, ta cất nhà ta!

Thảnh thơi ta mở trại hoa

Giữa chừng sông núi, la đà nước non

Biết vừa đủ, tiền nong vừa đủ

Vòng lợi danh, vương nửa tấm son

Không xinh, nhưng cũng dễ nom

Không giầu, nhưng cũng còn dòn hơn ai!

Nhà ta xây, nửa đài, nửa các

Đồ đạc ta lác đác đủ chơi

Áo ta cũ mới chơi vơi

Uống ăn na ná như người bậc trung

Vài tôi tớ không thông, không dở

Vợ con ta, đơ đỡ ta ưng

Nửa tiên, nửa tục, lừng chừng

Nửa cùng thần thánh, nửa cùng thê nhi

Nửa bụng dạ, lo vì con cái

Nửa tâm hồn gửi lại Hoàng Thiên

Để khi thoát xác ta yên

Biết đường thưa gửi, biết niềm tới lui!

Ngủ say là lúc ly bôi,

Đóa hoa hàm tiếu là thời mê ly.

Buồm nửa cánh, thuyền đi thong thả

Cương vừa giong, vó ngựa mới hay

Quá giầu, phiền lụy sẽ đầy

Quá nghèo, cuộc sống sẽ đầy truân chiên

Trần ai, sướng với phiền khó tách

Trong ngọt ngào, pha phách đắng cay

Hưởng đời đừng quá mê say

Lưng chừng đại khái, tháng ngày tiêu dao!


Khi viết bài này, ngẫu nhiên tôi có gọi điện thoại cho cụ Đan Quế, để hỏi về chuyện Từ Thức lên tiên. Sau khi tôi trình bầy rằng con người chẳng cần lên tiên, vẫn có thể sống thần tiên, ngay tại khu vực mình đang ở, ngay trong hoàn cảnh mình đang sống, cụ rất đồng ý với tôi và nói đã làm 5 bài thơ dưới nhan đề là THÊNH THANG NGOÀI CÕI.

 


Nguyễn văn Thọ


(trích Thời Tập)


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
hoa_cuc