TẢN MẠN VỀ GINKGO (BẠCH QUẢ)

02 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 22900)




bachqua



Tản mạn về Ginkgo

 

Nguyễn Hưng


Từ lâu, người Việt chúng ta không xa lạ gì với tên bạch quả qua một số món ăn được chế biến từ loại cây này, đặc biệt là món chè bạch quả.

Trong khoảng thời gian gần đây, một loại dược thảo được bán tự do, không cần toa bác sĩ, trong các tiệm thuốc tây (pharmacy) hay các siêu thị (super market) của Mỹ như Vons, Costco, Ralphs v.v dưới cái tên Ginkgo biloba, và rất được người Mỹ bản xứ ưa chuộng.

Tuy nhiên ít người trong chúng ta biết Ginkgo biloba chính là cây bạch quả.


cay_bachquaGinkgo đã xuất hiện trên quả địa cầu khoảng 150 triệu năm, là một loài cây sống rất lâu , có thể sống đến 1,000 năm. Một số hoá thạch ( fossil ) của loài cây này đã được tìm thấy ở Bắc Mỹ (North America ) và châu Á (Asia) như Nhật, Trung quốc. Tuy nhiên chưa biết Ginkgo có mọc ở Việt nam hay không. Đây là một loài thực vật được nghiên cứu nhiều nhất từ trước đến nay.

Ginkgo là loài cây tăng trưởng chậm, cao tối đa khoảng 30m với tàng lá có thể rộng đến 15m. Lá có hình cánh quạt có bề dài từ 5.1cm đến 7.6cm.

Quả Ginkgo có mùi hôi rất khó chịu, không thể ăn được, tuy nhiên hột của nó (seed) là một thức ăn bổ dưỡng, có thể mua trong các chợ Tàu hay Á đông.

Người Tàu đã biết sử dụng lá và hột để làm dược thảo từ hàng nhiều thế kỷ trước, tuy nhiên mãi đến nay, Ginkgo mới được nghiên cứu một cách có hệ thống.



hat_bachquaLá Ginkgo được sử dụng như là một loại dược thảo , ở dạng ly trích (extract) , ginkgo biloba extract (GBE) , và rất hiệu quả trong việc chữa trị một số bịnh. Ginkgo là dược thảo bán chạy hàng đầu ở Âu châu và là 1 trong 5 dược thảo được bán nhiều nhất ở Pháp và Đức.
 
Hơn 40 hợp chất đã được tìm thấy trong Ginkgo, tuy nhiên chỉ có 2 nhóm hợp chất có dược tính là Flavonoids (Quercetin, Kaempferol, Isorhamnetin) và Terpenoids (Ginkgolides)
Isorhamnetin

Ginkgo biloba extract (GBE) chứa khoảng 24% flavonoids và 6% terpenoids (2.8 - 3.4% ginkgolides A,B,C và 2.6-3.2 % bilobalide)

Những flavonoids như quercetin, kaempferol, isohamnetin có tính chất như những antioxidants có tác dụng chống lại sự oxid hóa (oxidization), sự oxid hóa này là nguyên nhân gây lão hóa của các tế bào trong cơ thể sinh vật.

Những antioxidants này sẽ trung hoà những phân tử gốc tự do ( free radicals, thí dụ như CH3., C2H5.) những phân tử này là nguyên nhân làm thay đổi màng tế bào, thay đổi cơ cấu DNA, và có thể gây ra sự tử vong của tế bào.

Thông thường những gốc tự do này hiện diện một cách tự nhiên trong cơ thể, tuy nhiên với tác động của những độc chất trong môi trường, như tia tử ngoại (UV), chất phóng xạ, khói thuốc, ô nhiễm không khí v.v đã làm gia tăng số lượng những gốc tự do (free radicals) và đó là nguyên nhân gây ra một số bịnh về tim mạch, ung thư hay Alzheimer.

Một nhóm hoạt chất khác là terpenoids, như ginkgolide A, B, C làm gia tăng lượng máu luân lưu trong cơ thể, bởi khả năng làm trương nở mạch máu và làm giảm độ dính (stickness) của tiểu huyết cầu.

Đó là lý do mà từ lâu, Ginkgo được dùng để chữa trị các bịnh thuộc hệ tuần hoàn và những bịnh mất trí nhớ hoặc liên quan tới não bô, gây ra do sự giảm sút lượng máu tới não, đặc biệt thường xảy ra với người già.

Từ kết quả nghiên cứu ở trong phòng thí nghiệm, trên các loài động vật , các nhà dược thảo học đề nghị sử dụng Ginkgo để chữa trị các chứng sau đây :

1. Chứng mất trí nhớ và bịnh Alzheimer

Ginkgo đã được dùng rộng rãi bên Âu châu dựa trên khả năng làm gia tăng lượng máu lên não bộ, nhờ đó giúp gia tăng khả năng suy nghĩ, học hỏi, tăng trí nhớ ở những người mắc bịnh hay quên hay Alzheimer's disease.
Những sự thử nghiệm trên bịnh nhân Alzheimer cho thấy :

-Gia tăng trí nhớ, khả năng suy nghĩ.
-Gia tăng hoạt động sinh hoạt hàng ngày.
-Làm giảm thiểu tình trạng bị trầm cảm (depression).

2. Chứng bịnh liên quan về mắt

Các hoạt chất flavonoids trong Ginkgo có thể giúp chữa trị những chứng bịnh liên quan đến võng mạc, gây ra bởi tuổi già hay các biến chứng do tiểu đường (diabetes).

3. Chứng tê , đau chân (intermittent claudication)

Như đã nói ở trên, nhờ tính chất làm giãn nở các mạch máu trong cơ thể, Ginkgo đã giúp gia tăng lượng máu về chân, vì vậy được dùng để chữa trị chứng tê, đau chân do thiếu máu.

4. Chứng mất trí nhớ (memory impairment)

Từ lâu Ginkgo được coi là dược thảo cho não bộ . Những nghiên cứu cho thấy sử dụng Ginkgo hàng ngày sẽ gia tăng trí nhớ, tăng cường khả năng nhận thức, đặc biệt là ở những người lớn tuổi .

Ngoài ra, các nhà dược thảo học còn đề nghị sử dụng Ginkgo để chữa trị các chứng bịnh như suyễn,nhức đầu, cao huyết áp, chứng bất lực, chóng mặt v.v.

Liều lượng

GBE (24% flavonoids, 6% terpenoids) : 120mg /daily, chia ra 2 hoặc ba lần.

Biến chứng (side effects)

GBE được coi là rất an toàn cho người sử dụng, tuy nhiên cũng có một vài biến chứng khi sử dụng dược thảo này:

Vì có tính chất làm loãng máu, không nên sử dụng Ginkgo chung với Aspirin (cũng là một loại thuốc làm loãng máu khác). Phải ngưng sử dụng Ginkgo ít nhất 36 giờ trước khi giải phẫu.

Phụ nữ có thai hay đang nuôi con bằng sữa mẹ cũng được khuyên không nên sử dụng Ginkgo .

 Ginkgo là một dược thảo lý tưởng cho các quý vị trung, cao niên trong việc gia tăng trí nhớ, làm chậm quá trình lão hoá.


Nguyễn Hưng

BI Nutraceuticals (Long Beach, California, USA)

 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Nhan nai Lan