Sấm Trạng Trình
- Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong
lịch sử Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn
Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Hơn 500 năm sau, xuất
hiện Trạng Trình - nhà tiên tri thứ hai. Ở Pháp, cùng thời với Trạng Trình có
nhà tiên tri Nostradams (1503-1566) sinh trưởng ở thành phố Saint Re'my thuộc xứ
Provence. Toàn bộ sấm ngữ của ông này đã được xuất bản tại Lyon năm 1555 dưới
tên gọi Les centurtes (Những thế kỷ). Năm 1966 kỷ niệm 400 năm ngày mất của
ông, tác phẩm này được in lại tại Nhà Xuất Bản Pierre Delpont.
Trạng
Trình sinh trước (1491) và mất sau (1586). Năm 1986, kỷ niệm 400 năm ngày mất của
Trạng Trình, người ta hay nhắc tới câu sấm tiên đoán về sự trở về của ông:
"Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về". Từ đấy,
Trạng Trình trở về với thời đại chúng ta thực sự.
Từ nhiều đời nay, những câu sấm tiên tri của Trạng Trình đã giúp cho bao chính khách biết việc mà xuất xử đúng đắn. Nhờ tài kiệt xuất này, ông thật xứng đáng với câu đối đã ghi ở đền thờ tại Bạch Vân Am: "Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng - Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu" (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng - Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu).
Sinh
thời, Trạng Trình cùng bạn thần đồng Bùi Ngu Dân (thường gọi là Bùi Công)
thường rủ nhau bàn định bấm đoán về vận nước. Hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi
vua Lê, cặp tri kỷ cùng nhau đoán định. Bùi Công viết vào lòng tay bốn
câu ngũ ngôn: "Mộc đinh niên đinh khẩu - Bát đạo nhập mộc văn - Băng tâm đại đức vũ - Thiên hạ bán rã bình" (Phương Đông Mạc lên ngôi
- Định đoạt nên danh tiếng - Thì tám hướng sẽ loạn - Những người luôn trung
thành - đứng lên cầm vũ khí - Chỉ nửa được thái bình). Còn Trạng Trình thì viết
vào lòng tay thất ngôn tứ tuyệt: "Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh - Can
qua xứ khổ đao binh - Mã đề dương cước anh hùng tận - Thân dậu niên lai kiến
thái bình" (Cuối năm rồng, đầu năm rắn xảy ra chiến tranh - Nạn binh
đao ở khắp mọi nơi - Cuối năm ngựa, đầu năm dê anh hùng mất hết - Qua năm khỉ,
năm gà sẽ thái bình).
Trong
lịch sử quả thật, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó
sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau năm Ất Dậu (1525) và đoạt ngôi vào năm Đinh
Hợi (1527) lập ra triều Mạc.
Vào
những năm Việt Nam hết sức rối ren giữa các thế lực nhà Lê với nhà Mạc,
giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng, chỉ với 6 câu thơ tiên tri, Trạng Trình đã thu
xếp được các thế lực vào đúng nơi trên đất nước khiến cho dân đỡ lầm than khổ sở
trong nạn binh đao. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến, ông đã tặng cho Nguyễn Hoàng
hai câu thơ: "Hoành Sơn nhất đái-Vạn đại dung thân" (có bản đề là:
"Khả dĩ dung thân"). Ý rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy
Trường Sơn mà tồn tại). Nguyễn Hoàng nghe theo xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ
Đèo Ngang trở vào. Khi người nhà Trịnh Kiểm hỏi ông về vị trí của mình, có nên
thoán ngôi vua Lê không, ông trả lời: "Chịu khó mà thắp nhang- thờ Phật
thì ăn oản" (Có nghĩa rằng phải thờ nhà Lê thì có lộc). Trước khi ông mất,
nhà Mạc xin ý kiến tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu thơ: "Cao Bằng tàng
tại- tam đại tồn cô" (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được
ba đời nữa). Nhà Mạc đã theo kế ấy và đã tồn tại được thêm ba đời nữa thật.
Sau khi ông mất, những lời sấm vẫn được chứng nghiệm ở đời sau. Có giai thoại nói rằng: vào thời Tự Đức, bỗng nhiên quan quân kéo về đập phá nhà thờ Quan Trạng. Hỏi ra mới hay vì Tự Đức quá tức giận bởi câu sấm: "Gia Long tam đại-Vĩnh Lại vi vương". Lời sấm truyền này nói rằng Tự Đức không phải dòng giống Gia Long mà là con của Quận Quế- Người Vĩnh Lạc (Vĩnh Bảo hôm nay).
Lại có giai thoại kể rõ, Quan Thượng Tứ - Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Khi đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, Thượng Tứ xem xét cẩn thận, thấy Trạng Trình là thầy rất "cao tay" sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Sau khi bàn bạc với con cháu Trạng Trình, Thượng Tứ quyết để lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Khi đào đến gần hộp quách, thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: "Bát thập niên tiền khi chung vũ tả - Bát thập niên hậu khí nhập ư trung" (Tám mươi năm trước khí tốt bên trái - Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong).
Những
giai thoại như trên nhiều và rì rầm ở khắp nơi. Nào là giai thoại cha con thằng
Khả đánh đổ bia. Nào là giai thoại thằng Trứ (Nguyễn Công Trứ) phá đền... đều
là những câu sấm lẻ Trạng Trình thốt nhiên nói ra. Khi về già, Trạng Trình mới
làm hẳn một bài sấm ký dài lưu truyền lại với mục đích như câu cảm đề đã ghi:
"Bí truyền cho con cháu- Dành hậu thế xem chơi". Bài sấm ký nói về những
biến thiên trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm nay.
Phần
từ đầu đến khi Trạng Trình quy tiên thì không nhiều, chủ yếu là từ sau khi ông
qua đời cho đến hôm nay. Bài sấm rất dài nhưng có đoạn gần cuối có vẻ ứng với
hai năm tùng bách mộc này (2010 và 2011): "Phân phân tùng bách khởi-
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh - Bảo Giang thiên tử xuất - Bất chiến tự nhiên
thành". Mọi ý sâu xa xin để người đời giải đáp, tức là vào Tết Tân Mão
2011, thiên hạ sẽ thái bình.
(trích bài của Nguyễn Thụy Kha)
SẤM TRẠNG TRÌNH
Vận
lành mừng gặp tiết lành
Thấy
trong quôc ngữ lập thành nên câu
Một
câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
Trải
vì sao mây che Thái Ất
Thủa
cung tay xe nhật phù lên
Việt
Nam khởi tổ xây nên
Lạc
Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh
suy bỉ
thới
lẽ
thường
Một
thời
lại
một
nhiễu
nhương
nên lề
Đến
Đinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
Mở
bản
đồ
rủ
áo chấp
tay
Ngự
đao phút chốc đổi thay
Thập
bát tử
rày quyền đã nổi lên
Đông a âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
Chấn
cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Đoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới
lẫn
trên năng vẫn uống quen
Sửa
sang muôn việc cầm quyền
Ngồi
không ai dể khẳng nhìn giúp cho
Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc
cường
hầu
ong ỏng
tranh khôn
Trời
sinh ra những kẻ gian
Mặt
khôn đổi phép, mặc ngoan tham tàii
Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đấp núi khi say xây thành
Lấy
đạt
điền
làm công thiên hạ
Được
mấy
năm đất
lở
giếng
mòn
Con yết
ạch
ạch
tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ
trời
xem đã mê đồ
Đã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy
lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt
vạn
dân cừu
giận
oán than
Dưới
trên dốc chí lo toan
Những
đua bán nước bán quan làm giàu
Thống
rủ
nhau làm mồi phú quí
Mấy
trung thần có chí an dân
Đua nhau làm sự bất nhân
Đã tuần
bốn
bể
lại
tuần
đầu
non
Dư
đồ
chia xẻ càn khôn
Mối
giềng
man mác khiếp mòn lòng nhau
Vội
sang giàu giết người lấy của
Sự
có chăng mặc nọ ai đôi
Việc
làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
Xem tượng
trời
đã giơ
ra trước
Còn hung hăng bạc ngược qúa xưa
Cuồn
phong cả sớm liền trưa
Đã đờn
cửu
khúc còn thơ thi đề
Ấy
Tần
Vương
ngu mê chẳng biết
Để
vạn
dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy
nội
thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một
góc thành làm tâm chứng quỷ
Đua một
lòng ích kỷ hại nhân
Bốn
phương
rời
rỡ
hồng
trần
Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
Tiếc
là những
xuất
dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy
giờ
thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
Nội
thành ong ỏng hư kinh
Đầu
khỉ
tin sứ
chèo thành lại sang
Bở
mồ
hôi Bắc
giang tái mã
Giửa
hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc
trung kinh dụng cáo không
Giữa
năm giả lại kiểm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng
yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy
binh cờ phất vầng hồng
Bộ
binh tấp nập như ong kéo hàng
Đứng
hiên ngang đố ai biết trước
Ấy
Bắc
binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm
kia bắt
nọ
tưng
bừng
đôi nơi
Chưa
từng
thấy
đời
này sự
lạ
Bổng
khiến
người
giá hoạ cho dân
Muốn
bình sao chẳng lấy nhân
Muốn
yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Đã nên si Hoàn Linh dời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng
ngờ
thiên đạo xây dần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm
bốn
bể
can qua
Nguyễn
thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ
xưng
cứu
nước
kẻ
khoe trị đời
Bấy
giờ
càng khốn than ôi
Quỉ
ma trật
vật
biết
trời
là đâu ?
Thương
những
kẻ
ăn rau ăn giới
Gặp
nước
bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy
đâu hơn
thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này
Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chử
Rằng
lục
thất
nguyệt
gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ
nhân kiến đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
Bốn
phương
chẳng
động
can qua
Quần
hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy
giờ
mở
rộng
qui khôi
Thần
châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Lại
nói sự
Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ
lộ
mặt
rồng
đầu
có chử
vương
Rỏ
sinh tài lạ khác thường
Thuấn
Nghiêu là chí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng đãi thánh
Dốc
sinh hiền điều đỉnh nội mai
Chọn
đầu
thai những vì sao cả
Dùng ở
tay phụ tá vương gia
Bắc
phương
chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Đời
này thánh kế vị vương
Đủ
no đạo
đức
văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ
cơ
sẽ
mới
ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở
đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc
mây đã biết thành long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại
dặn
đấng
tú nam chí cả
Chớ
vội
vàng tất tả chạy rong
Học
cho biết lý kiết hung
Biết
phương
hướng
bội
chớ
dùng làm chi
Hễ
trời
sinh xuốg phải thì
Bất
kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới
chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
Âm dương
cơ
ngẩu
ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy thần kinh
Được
vào trận chiến mới càng biến cơ
Chớ
vật
vờ
quen loài ong kiến
Biết
ray tay miệng biếng nói không
Ngỏ
hay gặp
hội
mây rồng
Công danh saỴng chói chép trong vân đài
Bấy
giờ
phỉ
sức
chí trai
Lọ
là cho phải ngược xuôi nhọc mình
Nặng
lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Đủ
nho biền tướng anh hào đôi nơi
Nước
Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy
lời
để
tàng kim quỉ
Chờ
hậu
mai có chí sẽ cho
Trước
là biết
nẽo
tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy
vĩ tinh liệu rạo cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi
tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ
con mang mệnh tướng quân
Ngỡ
oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy
gương
vua U thủa trước
Loạn
ru vì tham ngược bất nhân
Đoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa
cơ
liền
mới
nổi
cơn
phục
thù
Ấy
là những
binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền dầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ
chẳng
thường
trong năm khôn xiết
Vẽ
lại
thêm hung kiệt mất mùa
Lưu
tinh hiện trước đôi thu
Bấy
giờ
thiên hạ mây mù đủ năm
Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ
ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến
trường
chốn
chốn
cát lầm
Kẻ
nằm
đầy
đất
kẻ
trầm
đầy
sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
Đua nhau đồ thán quần lê
Bấy
giờ
thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ
thì phải thủa hung hoang
Kẻ
thì binh hoả chiến trường chết oan
Kẻ
thì mắc
thủa
hung tàn
Kẻ
thì bận
của
bổng
toan khốn mình
Muông vương dựng ổ cắn tranh
Điều
thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời
bời
đua mạnh
tranh giành
Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
Bể
thanh cá phải ẩn cây
Đất
bằng
nổi
sấm
cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn U
Thủy
chiến
bộ
chiến
mặc
dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một
làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn
phương
cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
Đoài phương thực có chân nhân
Quần
tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
Bốn
bề
núi đá riểu quanh
Một
đường
tiểu
mạch
nương
mình dấy an
Hễ
đông nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc
kinh mới thật đế kinh
Dấu
thân chưa dễ dấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
Ai dễ
cứu
con thơ sa giếng
Đưa
một
lòng tranh tiếng dục nhau
Vạn
dân chịu thủa u sầu
Kể
dư
đôi ngủ mới hầu khoan cho
Cấy
cày thu đãi thời mùa
Bấy
giờ
phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng
phiền
binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng
trời
biết
đường
đời
trị
Gẩm
về
sau họ
Lý xưa
nên
Giòng nhà để lấy dấu truyền
Gẩm
xem bốn
báu còn in đời đời
Thần
qui cơ
nổ ở trời
Để
làm thần khí thủa nơi trị trường
Lại
nói sự
Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục
thất
cho biết ngày dài
Phụ
nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy
nhân thập đi về
Tả
phụ
hửu
trì cây cỏ làm binh
Giốc
hết
sức
sửa
sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều chỉnh hộ may
Bấy
giờ
mới
biết
rằng
tài yên dân
Lọ
là phải
nhọc
kéo quân
Thấy
nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ
Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ
thơ
ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản
đồ
chảng
sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
Vững
nền
vương
cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể
kình tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gío xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
Vừa
năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển
vàng mở thấy sấm trời
Từ Ịinh đổi đời chí lục thất gian
Một
thời
có một
tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
Luận
chung một tập kim thời
Tướng
quyền
tử
sĩ nam nhi học đòi
Trượng
phu có chí thời coi
Những
câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy
nên đấng
vẻ
vang
Biết
chừng
đời
trị
biết
đường
đời
suy
Kể
từ
nhân đoản mà đi
Số
chưa
gặp
thì biết hoà chép ra
Tiếc
thay hiền sĩ bao già
Ước
bằng
Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử
cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay
Hiềm
vì sinh phải thời này
Rấp
thù mở
nước
tiếc
thay chưng đời
Hợp
đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Đương
thời
đời
trị
xoay vần được đâu
Chờ
cho nhân đoản hết sau
Đến
chừng
đời
ấy
thấy
âu nhiễu nàn
Trời
xui những kẻ ắt gian
Kiếp
độc
đạo
thiết
làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính duới nay dấy loàn
Đua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc
tài gẩm
được
thời
hay
Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
Muốn
làm tướng
suý lập
công xưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tội trời
Cơ
mưu
nhiệm
nhặt
mấy
trai anh hùng
Đi tìm cho đến đế cung
Rấp
phù xuất lực đế cung được toàn
Bảo
nhau cương kỷ cho tường
Bốn
phương
cũng được cho yên trong ngoài
Chờ
cho động
đất
chuyển
trời
Bấy
giờ
thánh sẽ nên tay anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Đời
ấy
những
quỉ
cùng ma
Chảng
còn ở
thật
người
ta đâu là
Trời
cao đất
rộng
bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
Dù trai ai chửa biết tường
Nhất
thổ
thời
sĩ Khảm
Phương
thuở
này
Ý ra lục thất gian nay
Thời
vận
đã định
thời
nầy
hưng
vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo
Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Đại
ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Đường
đi thỏ
thẻ
dặm
chưn
khôn dò
Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn
lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
Vua ở
trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực
thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất
sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường
như
chửa
có sinh vương đâu là
Chảng
tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả
long triều lại có thành đợt vây
Hửu
hổ
uấn
khúc giang này
Minh Đường thất diệu trước bày mặt tai
Ở
xa thấy
một
con voi
Cúi đầu
quen bụi trông vời hồ sâu
Ấy
điềm
thiên tử về chầu
Tượng
trưng
đế
thánh tô lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
Đến
đời
thịnh
vượng
còn lâu
Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho dông bắc tây nam
Muốn
làm tướng
suý thì xem trông này
Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
Một
nhà họ
Nguyễn
phúc sinh tôn
Tiền
sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu
sinh thiên tử Bảo Giang môn
Kìa cơn
gió thổi lá rung cây
Rung bắc sang nam đông tới tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ
cổ
thụ
sạch
am mây
Sơn
lâm nổi
sóng mù thao cát
Hưng
địa
tràng giang hoá nước đầy
Một
gió một
yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Con mùng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm
ầm
sấm
động
hỏi
người
đông lân
Tiếc
tám lạng
thương
nửa
cân
Biết
rằng
ai có du phần như ai
Bắt
tay nằm
nghỉ
dông dài
Thương
người
có một
lo hai phận mình
Canh niên tân phá
Tuất
hợi
phục
sinh
Nhị
Ngũ dư
bình
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề
dương
cước
anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một
đàn xà đánh lộn nhau
Vượn
nọ
leo cành cho sỉ bóng
Lợn
kia làm quái phải sai đầu
Chuột
nọ
lăm le mong cản tổ
Ngựa
kia đủng
đỉnh
bước
về
tàu
Hùm ở
trên rừng gầm mới dậy
Tìm về
quê củ
bắt
ngựa
tàu
Cửu
cửu
kiền
khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực
đáo dương
đầu
mã vĩ
Hồ
binh bát vạn nhập trường an
Bảo
Giang thiên tử xuất
Bất
chiến
tự
nhiên thành
Lê dân bảo bảo noản
Tứ
hải
lạc
âu ca
Dục
đức
thánh nhân hương
Qúa kiều cư bắc phương
Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch
sinh ngưu lang
Thượng
đại
nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch
hổ
kim đái ấn
Thất
thập
cổ
lai xuân
Bắc
hữu
kim thành tráng
Nam tạc
ngọc
bích thành
Hỏa
thôn đa khuyển phệ
Mục
giả
dục
nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần
cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Địa
giới
sĩ vị
bạch
Thủy
trầm
nhi bắc
kinh
Kỷ
mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
Trư
thử
giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu
nhiểu
xuất
đông chinh
Bảo
sơn
thiên tử xuất
Bất
chiến
tự
nhiên thành
Thủy
trung tàng bảo cái
Hứa
cập
thánh nhân hương
Mộc
hạ
châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương
Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
Mại
dử
lê viện
dưỡng
Khởi
nguyệt
bộ
đại
giang
Hoặc
kiều
tam lộng
ngạn
Hoặc
ngụ
kim lăng cương
Thiên dử thần thực thụy
Thụy
trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi địch
Đạo
đức
thực
dữ
đương
Tộ
truyền
nhị
thập
ngủ
Vận
khải
ngủ
viên trường
Vận
đáo dương
hầu
ách
Chấn
đoài cương bất trường
Quần
gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm
địch
tánh hung hoang
Ma vương
sát đại
quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền
khôn phú tải vô lương
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ
nhị
ngủ
thư
hùng vị quyết
Đảo
Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ
vô phụ
vô quân
Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
Đoài phương phước địa giáng linh
Cửu
trùng thụy ứng long thành ngủ vân
Phá điền thiên tủ giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
Trần
công nải thị phúc tâm
Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
Tướng
thần
hệ
xuất
y chu
Thứ
kỵ
phục
kiến
Đường
ngu thi hành
Hiệu
xưng
thiên hạ thái bình
Đông tây vô sự nam thành quốc gia