Phẩm Tỳ Kheo/ Bà La Môn 360-423

18 Tháng Tư 20215:01 CH(Xem: 1431)


monk-content

25. Phẩm Tỷ Kheo
(BHIKKUVAGGO)

---o0o---


360.  Lành thay, chế phục hai tai

Lành thay, chế phục được đôi mắt này

Lành thay, chế phục mũi đây

Lành thay, chế phục luôn ngay lưỡi mình

 

361.  Lành thay, chế phục thân hình

Lành thay, chế phục, giữ gìn, ý, ngôn

Lành thay, chế phục các căn

Tỷ Kheo gìn giữ, thoát đường khổ ngay

 

362.  Người nào làm chủ chân tay

Chủ nhân đầu óc, chủ lời phát ngôn

Vui thiền, biết đủ, sống đơn

Tỷ Kheo danh xứng, quả lành tấn tăng

 

363.  Tỷ Kheo gìn giữ nói năng

Thân tâm an tịnh, thoát vòng vô minh

Diễn bày Pháp nghĩa rõ ràng

Ngôn từ hoà ái, nhẹ nhàng, tịnh yên

 

364. Tỷ Kheo trú Chánh Pháp viên

Một lòng mến Pháp, cần chuyên trì hành

Tư duy tưởng Pháp, tâm thành

Không rời Chánh Pháp, an lành tiến tu

 

365. Điều mình chứng được chẳng chê

Đừng ganh tị với điều chi của người

Tỷ Kheo ganh tị với người

Vọng tâm, khó định, hại thôi, ích gì

366. Ít thì chứng ít, chê chi

Điều mình chứng được, chớ bì, chớ khinh

Siêng năng, thanh tịnh, giữ gìn

Tỷ Kheo sống vậy, Chư Thiên khen vì

367.  Tỷ Kheo danh sắc kể chi

Ta còn không chấp, chấp gì của ta

Dứt trừ chấp, thoát bẫy Ma

Tỷ Kheo như vậy, xứng là Tỷ Kheo

368. Từ bi, hành giả trú theo

Tín thành Phật Pháp, cao siêu một lòng

Cảnh an tịch tịnh chứng xong

Niết Bàn cảnh giới, thoát vòng tử sinh

369. Tỷ Kheo tát nước thuyền thân

Thuyền không còn nước, lướt nhanh tới bờ

Nước tham, sân, hận sạch trơ

Niết Bàn chứng đắc, cập bờ nhanh sao

370.  Dứt mười phiền não thấp cao

Dứt năm trói buộc, đoạn bao buộc ràng

Tập tu đều đặn năm căn

Tỷ Kheo danh xứng, vượt dòng lũ to

371. Tỷ Kheo hãy gắng định tu

Không buông lung, phải diệt trừ dục tham

Buông lung như nuốt sắt nung

Đốt thiêu đau đớn, thời đừng thở than

 

372. Không thiền, trí thiếu, tất nhiên

Trí mà không có, sao thiền được đây

Ai mà thiền, trí đủ đầy

Niết Bàn cảnh lạc, gần ngay bên mình

 

373. Bước vào nơi trống, vắng thanh

Tỷ Kheo tâm lặng, thiền hành tịnh an

Quán theo Chánh Pháp một đàng

Hưởng nguồn hạnh lạc của hàng siêu nhân

 

374. Người nào Chánh Niệm giữ luôn

Diệt sanh, ngũ uẩn, tỏ tường lẽ chân

Niềm vui an lạc thân tâm

Đấy hàng bất tử, chẳng nhầm, chẳng sai

 

375. Tỷ Kheo có trí hơn đời

Luôn luôn nhiếp hộ, chẳng rời các căn

Giữ gìn giới luật tinh cần

Biết câu tri túc, sống gần thiện nhân

 

376. Phong tư ứng xử thiện thân

Hành vi đoan chánh, mười phần thẳng ngay

Hưởng nhiều an lạc vui thay

Khổ đau tan diệt, dứt ngay não phiền

377.  Hãy nhìn kỹ cánh bông lài

Úa thời rơi rụng tàn phai thể nào

Tỷ Kheo cũng vậy, tu sao

Cho tham, sân úa rơi vào cõi hư

 378. Tỷ Kheo tịch tịnh, chuyên tu

Giữ tâm chính định, ngôn từ tịnh thanh

Giã từ thế vật, dục tham

Bậc này tịch tịnh, xứng danh, xứng tình

 379. Tỷ Kheo phải tự xét mình

Tự mình phản tỉnh, xem mình đục trong

Giữ gìn Chánh Niệm, tự phòng

Trụ trong an lạc, tâm không muộn phiền

 380.  Phải nương tựa ở chính mình

Tự mình bảo hộ cho mình, chẳng ai

Tự mình điều phục mình thôi

Như người buôn ngựa luyện tôi ngựa thuần

381.  Tỷ Kheo hoan hỷ, Chánh Tâm

Tín thành Phật Pháp cao thâm nhiệm mầu

An vui, tịch tịnh, thanh cao

Thoát vòng tạo nghiệp, diệt bao ưu phiền

 382. Tỷ Kheo tuổi nhỏ hữu duyên

Thấm nhuần Phật Pháp, năng siêng tu hành

Chính là ánh sáng trong lành

Như trăng ra khỏi mây đen, sáng ngời

 

---o0o---

 

 26. Phẩm Bà-La-Môn (BRAHMANAVAGGO)
---o0o---​

      
383. Bà-la-môn (1) các người ơi

Hãy mau tinh tấn, dứt rời dục, tham

Uẩn kia rõ lẽ diệt tan

Vô vi chứng được Niết Bàn cõi Thiên

 

384.  Được sang bờ nọ an nhiên

Cũng nhờ chỉ, quán (2), pháp thiền trụ an

Bà-la-môn trí sáng lan

Diệt trừ ràng buộc, sạch tan não phiền

 

385.  Có, không, không, có, chẳng màng

Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không

Khổ đau diệt, trói buộc buông

Bà-la-môn đó, xứng danh gọi liền

 

386.  Dốc lòng, vững chí tu thiền

Ẩn cư, dứt sạch lậu phiền, việc xong

Đích cao tối thượng chứng thành

Bà-la-môn đó, xứng danh gọi rồi

 

387.  Ban ngày chiếu sáng mặt trời

Ban đêm nhờ ánh sáng ngời mặt trăng

Kiếm cung sáng chói vua quan

Định thiền tỏa sáng khắp hàng Sa môn

Hào quang của Phật lạ thường

Đêm ngày chói sáng, soi chung mọi loài

 

(1)  Bà la môn là đẳng cấp của các tu sĩ, triết gia, học giả, các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Phật. Cũng gọi là Phạm chí (hán tự)

(2)  Là hai cách tu thiền: thiền chỉ là tập trung để tâm tĩnh lặng, thiền quán là tập trung để nhìn sâu vào bản chất sự việc

388.   Bà-la-môn dứt ác rồi

Người tu thanh tịnh, gọi thời Sa môn

Người nào cấu uế sạch trơn

Xuất gia bậc ấy, xứng danh cõi trần

 

389.  Bà-la-môn chớ hận sân

Dù cho bị đánh, phạm thân, chẳng thù

Xấu thay kẻ đánh người tu

Mang lòng sân hận, oán thù, xấu hơn

 

390.  Tâm sân hận được chận ngăn

Vô cùng lợi ích cho Bà-la-môn

Phục điều tham ái, hận sân

Khổ đau dứt diệt, tâm thần lạc an

 

391.  Ai thân, miệng, ý, giữ giàng

Không gây nghiệp ác, một đàng chánh chân

Hộ phòng ba nghiệp tinh cần

Bà-la-môn đó, cõi trần xứng danh

 

392. Nghe ai thuyết Chánh Pháp lành

Giảng về Phật Pháp cho mình hiểu thêm

Một lòng kính lễ bậc trên

Như người thờ lửa cung nghinh lửa thần

 

 393.  Bà-la-môn, tựa chánh nhân

Chẳng vì bện tóc, chẳng cần gốc sanh

Thật, chân, chánh trí, tịnh thanh

Bà-la-môn mới xứng danh ở đời

 

394. Kẻ ngu tu bện tóc tai

Da dê làm áo cũng hoài, ích chi

Nội tâm phiền não, u mê

Chỉ lo trang điểm, thoát ly khó vời

 

395.  Ai choàng phấn tảo (1) rã rời

Người thời gầy guộc, da thời nổi gân

Trong rừng tu định, độc thân

Bà-la-môn đó, thập phần xứng danh

 

396.  Bà-la-môn chẳng xứng danh

Nếu nhờ chủng tộc, mẹ sanh truyền đời

Chỉ nên dùng chữ thường thôi

Nếu còn chấp trước, chẳng nguôi não phiền

Dứt xong chấp trước, não phiền

Bà-la-môn tánh, ta liền gọi tên

 

397.  Chẳng còn lo sợ đã nên

Mười điều khổ não muộn phiền (2) dứt xong

Tâm không đắm trước buộc ràng

Bà-la-môn tánh, ta hằng gọi tên

 

398.  Bỏ đai sân hận một bên

Bỏ cương ái dục, tùy miên (3), kiến tà

Vô minh hết, sáng suốt ra

Bà-la-môn tánh, chính là danh xưng

 

399.  Chẳng sinh ác ý, hận sân

Dù cho bị mắng, phạm thân, phạt hình

Có quân bi, nhẫn, tinh binh

Bà-la-môn tánh, xứng tình, xứng danh

 

(1)   Áo phấn tảo: may bằng các mảnh vải thừa góp lại

(2)   Gồm 5 phiền não của hạ giới: thân kiến (chấp thân có thật), nghi, giới cấm thủ (chấp các giới cấm tà), dục ái, sân và 5 phiền não của thượng giới: sắc ái, vô sắc ái (tham đắm định), mạn (ngạo mạn), trạo cử (loạn động), vô minh

(3)   Tùy miên gồm: dục, tham, sân, mạn, ác kiến, nghi, vô minh

 
400.  Hạnh thời đầy đủ, lìa sân

Một lòng trì giới, bỏ tham dục rồi

Phục điều thân cuối này thôi

Bà-la-môn ấy, sáng ngời tính danh

 

401. Tựa như nước đổ lá sen

Tựa như hạt cải, đầu kim, đôi đường

Những người ái dục chẳng vương

Bà-la-môn tánh, ta thường gọi tên

 

402. Ai mà tự giác, tự rèn

Diệt trừ gốc khổ, não phiền chẳng sinh

Xong bề giải thoát, nhẹ mình

Bà-la-môn tánh, xứng tình làm sao

 

403. Những người trí tuệ thâm cao

Tỏ tường Chánh Đạo, đạo nào ngụy hư

Cảnh Vô thượng đạt nhờ tu

Bà-la-môn ấy, danh từ đúng thay

 

404. Tục, Tăng chẳng lẫn với ai

Chẳng là thế tục, chẳng vời xuất gia

Độc thân, lìa dục ái Ma

Người nào như vậy, chính Bà-la-môn

 

405. Dời đao, bỏ trượng sát thương

Chúng sinh yếu kém, kiên cường, mặc ai

Chẳng sai giết, chẳng giết ai

Bà-la-môn đó, chính người chân tu

 

406. Sống thân thiện giữa địch thù

Giữ ôn hòa giữa mây mù hung hăng

Không vương mắc giữa mắc giăng

Bà-la-môn đó, xứng hàng chân nhân

 

407. Ai mà lìa bỏ tham, sân

Này lòng kiêu mạn, này tâm tị hiềm

Tựa như hạt cải, đầu kim

Bà-la-môn ấy, xứng tên gọi rồi

 

 408. Ôn hòa, từ ái một lời

Dù cho xúc phạm một người cũng không

Nói điều lợi ích, thật chơn

Bà-la-môn ấy, tấm lòng sáng chưng

 

409. Người tu, trộm cắp chẳng vương

Dù cho vật xấu, đẹp, thường, dửng dưng

Không cho không lấy, chánh chơn

Bà-la-môn ấy, tấm gương tuyệt vời

 

 410. Người không dục vọng nhúm khơi

Đời này thanh tịnh cũng tày đời sau

Đó là giải thoát nhiệm mầu

Bà-la-môn đó, hàng đầu danh xưng

 

411. Những người trí tuệ khai thông

Không còn tham ái, chẳng còn nghi nan

Chứng vào cảnh giới Niết Bàn

Bậc chân tu đó, hàng Bà-la-môn

 

412. Những ai sống cõi thế gian

Không vương thiện ác, không màng sầu vui

Tâm tư thanh tịnh tuyệt vời

Bà-la-môn đó, người người vinh danh

 

413. Đoạn trừ ái dục, tái sanh

Như vầng trăng sáng trong lành chiếu soi

Bụi không gợn, vẻ sáng ngời

Bà-la-môn đó, người đời xướng danh

 

414. Vượt qua phiền não, dục tham

Luân hồi nhiếp phục, Niết Bàn thấy ra

Không nghi, vướng mắc, đắm sa

Định thiền, tịch tịnh, đó Bà-la-môn

 

415. Đời này dứt bỏ dục luôn

Xuất gia học đạo, Sa môn điều mình

Không cho tham dục phát sinh

Bà-la-môn đó, xứng danh cõi trần

 

416. Đời này dứt bỏ ái luôn

Xuất gia học đạo, Sa môn điều mình

Không cho dục ái phát sinh

Bà-la-môn đó, xứng danh ở đời

 

417. Thoát xong ràng buộc con người

Thoát luôn ràng buộc cõi trời, lìa xa

Mọi điều ràng buộc thoát ra

Thánh nhân này đúng là Bà-la-môn

 

418. Những điều ưa ghét dứt luôn

Ái tham, chấp thủ (1), sạch trơn chẳng còn

Phục điều ngũ uẩn tinh thuần

Bà-la-môn đó, thập phần xứng danh

 

  (1)   Chấp thủ: ghì chặt lấy, giữ lấy cho mình

419. Tỏ tường sống chết chúng sanh

Nhưng không chấp trước (2), mắc vành trói ta

Sáng tâm giác, khéo vượt qua

Thánh nhân này đúng là Bà-la-môn

 

420. Người hành giả, bậc Thánh nhân

Mà người, Trời, quỷ khó tầm chốn nơi

Thọ sanh phiền não dứt rồi

Bà-la-môn đó, khó ai sánh vì

 

421. Vị lai, quá khứ, có chi

Hiện thời cũng chẳng có gì trong tay

Không chấp thủ, khéo xả thay

Bà-la-môn đó, người này Thánh nhân

 

422. Như trâu chúa có sức thần

Như người hùng thắng uẩn phiền não Ma

Như người tẩy sạch uế nhơ

Trí tâm giác ngộ, ấy Bà-la-môn

 

 423. Mâu Ni (3) kiếp trước tỏ tường

Giới Thiên, cõi đọa, đã từng thực hư

Tái sinh đã bị diệt trừ

Bậc Vô Thượng Trí, tâm tư thắng tà

Viên thành thiện nghiệp tự ta

Chân tu người đó, ấy Bà-la-môn

 

(2)   Chấp trước: giống như chấp thủ, nói về một ý niệm

(3)   Mâu Ni: người tu tập đã chuyển hóa được tham, sân, si và thanh tịnh thân, khẩu, ý

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Hoa Súng